Ðền Mây cũng như chùa Chuông ở phố Hiến là hai di tích nổi tiếng vì còn lưu giữ được phong cách kiến trúc thuần Việt. Đền Mây là nơi thờ tướng quân Phạm Bạch Hổ thời 12 sứ quân (tức Phạm Phòng Át), một vị tướng để lại nhiều dấu ấn qua các thời kì: Đằng Châu
Ðền Mây còn gọi là đền Đằng Châu là một di tích quốc gia thuộc
quần thể di tích Phố Hiến đã được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt. Đền nằm
bên sông Hồng, cạnh bến đò Mây xưa thuộc xã Ðằng Châu, nay là phường Lam Sơn,
thành phố Hưng Yên, nơi đã được dân gian ca ngợi "Trăm cảnh nghìn cảnh
không bằng Bến Lảnh, Ðò Mây".
Ðền Mây cũng như chùa Chuông ở phố Hiến là hai di tích nổi
tiếng vì còn lưu giữ được phong cách kiến trúc thuần Việt. Đền Mây là nơi thờ
tướng quân Phạm Bạch Hổ thời 12 sứ quân (tức Phạm Phòng Át), một vị tướng để lại
nhiều dấu ấn qua các thời kì: Đằng Châu
Địa danh Đằng Châu có từ thời Bắc Thuộc. Năm 1005, Nhà Tiền
Lê đổi Đằng Châu thành phủ Thái Bình. Vùng đất thuộc tỉnh Hưng Yên ngày nay. Đằng
Châu vốn là một căn cứ quân sự, nơi đóng quân của tướng Phạm Bạch Hổ thời 12 sứ
quân. Hiện nay chỉ còn địa danh làng Đằng Châu, phường Lam Sơn, thành phố Hưng
Yên. nhà Ngô, loạn 12 sứ quân và nhà Đinh.
Tướng quân Phạm Bạch Hổ
Theo “Đại Nam nhất thống chí”, Phạm Bạch Hổ sinh ngày 10
tháng 1 năm Canh Ngọ (910), thân phụ là Phạm Lệnh Công người lộ Nam Sách Giang
(nay là Kim Thành- Hải Dương). Lệnh Công có tiệm buôn lớn ở Đằng Châu - Kim Động
- Hưng Yên (nay là Xích Đằng - Lam Sơn - Hưng Yên).[2]
Theo thần tích xã Ðằng Châu, thân mẫu tướng quân Phạm Bạch Hổ
một hôm đi chợ về, qua làng Ðằng Châu, gặp mưa to gió lớn, phải trú vào ngôi miếu,
thấy ánh hào quang rực sáng, liền đó gặp hổ trắng hiện lên. Bà kinh hãi ngất
đi, tỉnh lại trời đã tạnh. Sau bà về có mang, sinh ông ngày 10 tháng 1 năm Canh
Ngọ (922), đặt tên là Phạm Bạch Hổ.
Tráng niên, Bạch Hồ theo vua Ngô Quyền có tài thao lược, trừng
trị Kiều Công Tiễn và đánh quân xâm lược Nam Hán. Ðất nước thanh bình, ông xin
Ngô Quyền về đất cũ Ðằng Châu khai hoang lập ấp. Năm 965, 12 sứ quân nổi lên
chiếm giữ các vùng. Đức Phạm Bạch Hổ (xưng Phạm Phòng Át) chiếm giữ Châu Ðằng
trong ba năm (965 - 967).
Vua Ðinh Bộ Lĩnh thu phục 12 sứ quân, chấm dứt tình trạng
cát cứ. Cảm phục tài đức của vua Ðinh Bộ Lĩnh, Phạm Phòng Át đem quân theo về,
được vua Ðinh phong chức Thân vệ tướng quân, luôn được vua trọng dụng.
Vào ngày Rằm tháng 11, có một đám mây vàng sà xuống dinh Bạch
Hổ. Ông theo mây vàng mà bay đi. Dân Ðằng Châu nhớ ơn công đức, tôn ông là Vua
Mây và xây miếu thờ ông gọi là Ðền Mây. Ở làng Ngọc Ðồng, huyện Kim Ðộng xây
lăng thờ ông, vì thế trong dân gian có câu: "Miếu làng Ðằng, lăng làng Ðồng".
Lịch sử đền Mây
Các ghi chép để lại đều cho rằng đền Mây được xây dựng từ thời
nhà Đinh. Tương truyền đền thần rất linh thiêng. Cuốn “Việt điện u linh” khi
nói đến thần thổ địa ở Đằng Châu - Hưng Yên có chép: xưa Vua Lê Long Đĩnh khi
chưa lên ngôi, có thực ấp ở Đằng Châu, thường bơi thuyền dạo chơi.
Một hôm thuyền đang trên sông bỗng mây kéo đến tối sầm, gió
thổi rất mạnh, mưa to sắp đổ xuống, Long Đĩnh tìm nơi trú ẩn, thấy trên bờ sông
có đền, mới hỏi người làng: “Đền thờ thần gì”, người làng thưa: “đây là đền thờ
thần thổ địa”, Vương hỏi “có thiêng không?” thưa rằng “đây là chỗ dựa của một
châu, lễ cầu mưa, cầu tạnh đều rất ứng”.
Vương bèn nói to lên rằng: "Nếu thần khiến được mưa gió
thì nay thử khiến cho bên này sông tạnh, bên kia sông mưa. Thế mới thật là
thiêng!”. Nói xong quả nhiên nửa sông bên kia mưa rất to, nửa sông bên này chỉ
có gió mát. Long Đĩnh không bị ướt, lấy làm lạ mới sai tu bổ đền thờ.
Trải qua thời gian, Đền Mây đã được trùng tu, tu sửa nhiều lần.
Ngày nay, kiến trúc ngôi đền vẫn mang đặc trưng nghệ thuật chạm khắc thời Hậu
Lê và thời Nguyễn.
Kiến trúc
Đền Mây được xây dựng kiểu chữ Tam gồm: tiền tế, trung từ và
hậu cung. Văn bia ở đền cho biết: Ðền được xây dựng vào thời nhà Ðinh, tu sửa
vào thời Lê. Ðến Thiệu Trị năm thứ 4 (1884) nhân dân dựa theo quy mô cũ mà sửa
lại... Ðến năm 1898 dân đồng tâm hiệp lực tu bổ lại ngôi đền, mùa xuân năm sau
hoàn thành. Ngôi đền linh thiêng nổi tiếng xứ Sơn Nam, chiến tích xa rồi nhưng
sự linh ứng và tiếng thơm vẫn lưu truyền mãi.
Tiền tế
Toà tiền tế với 3 gian được làm kiểu tường hồi bít đốc, mái
lợp ngói mũi. Chính giữa toà tiền tế treo bức đại tự khảm trai có ghi hàng chữ
“Thái Bình vương Phủ”. Dân gian coi Vua Mây là Vua của khu vực Thái Bình xưa.
Các gian bên treo các bức hoành phi có ghi: “Phúc dẫn Đằng lưu” (Sông Đằng dẫn
phúc); “Anh phi Châu quận” (Bậc anh tài ở quận Châu) và "Bán giang lĩnh
tích” (Nửa dòng sông còn in dấu tích).
Nhà tiền tế còn bức chạm khảm trai lưu bút tích của Tiến sĩ
Chu Mạnh Trinh, làm án sát xứ Hưng Yên, viết năm Mậu Tuất (1898) (dịch nghĩa):
"Ngoảnh đầu
nhìn lại, nghìn năm đất nước đã thay đổi nhiều.
Sự ngưỡng vọng tế
lễ còn ở bảy mươi đền miếu."
Trung từ
Trung từ là nơi thờ 4 vị quan văn võ của vua Mây Phạm Bạch Hổ.
Trung từ gồm 5 gian, nằm nối với tiền tế nhưng nền nhà cao hơn. Trung từ có kết
cấu kiểu vì giá chiêng, với hệ thống cột gỗ lim vững chắc kê trên chân tảng đá
lớn hình quả bồng để nâng đỡ mái. Hai bên cột treo đôi câu đối ca ngợi công lao
của tướng quân.
"Bá chủ hùng
đồ thập nhị sơn hà dư cổ luỹ
Thần cao linh khí
bán phân tinh vũ thử tiền giang".
Tạm dịch:
"Anh hùng bá
chủ một vùng, non nước phân chia 12 sứ quân
Linh thiêng hiển
hiện của thần, khúc sông này nửa phân mưa nắng".
Hậu cung
Hậu cung đền Mây gồm 3 gian, kết cấu vì chồng rường đơn giản,
không chạm trổ hoa văn. Trong đền còn lưu giữ 27 pho tượng, hầu hết được tạo
tác từ thời Lê, hai cỗ kiệu bát cống và một lư hương đồng rất quý.
Bia ghi lại tiểu sử tướng Phạm Bạch Hổ và lịch sử đền Mây
Hậu cung đền Mây có tượng tướng quân Phạm Phòng Át, thân mẫu
và phu nhân tướng quân và con trai ông với vai trò là hoàng tử. Các tượng được
tạc rất sống động. Thời 12 sứ quân, Phạm Bạch Hổ được coi như vị Vua cai quản
vùng xứ Đông rộng lớn gồm cả Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng ngày nay.
Tượng ông được tạc với tư thế oai phong, gian trung từ có tượng
bốn vị văn võ đã cùng Phạm Phòng Át khai phá, xây dựng cơ nghiệp, kích thước bằng
người thật, thể hiện sự phát triển đến đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc thế kỷ
XVIII qua bàn tay vàng của nghệ nhân dân gian.
Đền Mây còn lưu giữ các bức đại tự, khảm trai, kiệu bát cống,
bia đá và 23 bản sắc phong của các vua triều Lê - Nguyễn. Trong sáu tấm bia đá,
giá trị nhất là bia khắc bài "Ðặng Châu từ phụng ký" của Tuần phủ
Hưng Yên Phạm Văn Toán làm năm thứ 11 (1899) triều vua Thành Thái, đã từng cùng
Thống chế Hoàng Kế Viêm đánh Pháp ở trận Cầu Giấy, giết tướng giặc F.Garnie
(1873), được triều đình trọng dụng, phong chức Trung phụng đại phu Tham tri Bộ
binh, Phó đô ngự sử Viện Ðô sát. Nhân dịp Ðền Mây được trùng tu, ông đã dâng
bài văn bia ca ngợi công đức của Phạm Phòng Át.
Lễ hội đền Mây
Lễ hội đền Mây được tổ chức hàng năm ở hai thời điểm khác
nhau: Tháng Giêng từ ngày mồng 8 đến ngày 16 (âm lịch) là lễ hội kỷ niệm ngày
sinh; từ ngày 12 đến ngày 18 tháng 11 (âm lịch) là lễ hội kỷ niệm ngày hoá của
tướng quân Phạm Bạch Hổ. Ngoài ra, Từ 16 đến 24 tháng Sáu là ngày kỵ thân mẫu
Phạm Bạch Hổ.
Trong lễ hội ngoài tế lễ còn diễn ra phần hội với nhiều trò
chơi truyền thống mang đậm nét văn hoá của cư dân Bắc Bộ như: đấu vật, múa lân,
hát trống quân, múa rối nước, đánh cờ…