Đền miếu làng Bầu, x Kim Chung, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Làng Bầu xã xưa có tên là Thiên Biều hay Đa Lộc và ngôi Đình làng Bầu là một di tích tôn giáo tín ngưỡng thờ 3 vị thành hoàng làng là Cao Sơn, Linh Sơn, Tam Sơn và công chúa Tiên Dung với huyền thoại nổi tiếng Tiên Dung, Chử Đồng Tử từ thời Hùng Vương.
Phía bắc cầu Thăng Long có thôn Bầu, xã Kim Chung, xưa là một
thôn riêng biệt, lập thành xã Đa Lộc, nay sáp nhập với các thôn Hậu Dưỡng, Nhuế
thành xã Kim Chung. Ba thôn thành một xã, nhưng mỗi thôn đều có một lịch sử
hình thành, truyền thuyết, lễ hội dân gian riêng biệt.
Người vùng này có câu thành ngữ: “Cá trầm Bầu, trâu Cổ Điển,
kiến Thọ Đa”, cũng đã nói lên đặc điểm của từng vùng. Nói “cá trầm Bầu” là nói
về một thủy vực không sâu nhưng rộng, dân gian gọi là trầm. Truyền rằng từ ngàn
xưa, đất nước ta còn ngập lụt khắp nơi, bờ đê, bờ bao chưa có nên vùng trũng
nào cũng có nước, mà rộng lớn nhất đó là đầm Dạ Trạch. Đầm đó lớn, những chi
nhánh của nó ăn lan ra nhiều nơi, tuy không thành đầm,thành phá thì cũng thành
trầm, trong đó có trầm Bầu thuộc huyện Đông Ngàn.
Cũng ở khu vực này có một thôn nhỏ, lập nhà ở Bãi Dé là đất
cao, nhưng vì ở trên đó không có nước. Người giỏi phong thủy mách bảo nên đến
trầm Bầu mà sinh sống.
Quả nhiên dân làng đến nơi ở mới, cuộc sống đỡ vất vả hơn. Rồi
có một năm lụt to, phù sa dồn về nhiều đã tạo thành cồn bãi khiến đất đai màu mỡ
hơn, dân làng trở nên giàu có, đổi tên thôn là Đa Lộc. Sau này Đa Lộc phát triển
thành nơi “nhất xã nhất thôn” vẫn lấy tên cũ là Đa Lộc.
Thôn Đa Lộc thờ Cao Sơn Đại vương, Thanh Sơn Đại vương, Linh
Sơn Đại vương làm Thành hoàng bản thổ. Tại thôn cũng có riêng ngôi đền thờ công
chúa Tiên Dung và có tục lệ tổ chức hội riêng biệt.
Theo tích xưa kể lại, thì Công chúa Tiên Dung có công âm phù
giúp Vua Trưng Nữ Vương dẹp giặc Đông Hán. Tức là nơi đây thờ Công chúa Tiên
Dung riêng với nghĩa hiển linh giúp Chúa Trưng Vương.
Theo các vị cao tuổi, biết nhiều chuyện cũ kể lại thì làng
Đa Lộc thờ Công chúa Tiên Dung bởi lẽ đã sinh sống tại chi lưu đầm Dạ Trạch,
nơi có bãi Tự Nhiên, có cuộc “thiên duyên kỳ ngộ” giữa Công chúa Tiên Dung và
Chử Đồng Tử nên thôn Bầu hầu hạ cúng Ngài.
Nhưng có điều lạ là thôn thường tổ chức đồng nhất cho lễ hội
các vị cùng một ngày. Đó là ngày 8 tháng giêng hàng năm. Hai câu đối cổ thường
treo bên bàn thờ tứ vị tại hậu cung:
Tứ vị trung trinh danh quốc sử
Thiên thu khí phách ngưỡng Biều phong.
Tạm dịch là:
Bốn vị thần nổi danh trong sử nước
Ngàn năm qua khí phách còn lưu ở đất Biều.
Người trong thôn đến nay còn nhớ câu: “Mồng tám mở hội, mồng
chín vui xuân, mồng mười đóng thuyền, mười một tế cáo, mười hai rước quay mũi
thuyền, hóa mã và rã hội”. Như vậy, ngày hội có hai phần: tế các vị Thành hoàng
và tế rước thuyền Tiên chúa. Thuyền tiên được chuẩn bị trong ngày mồng mười,
nhưng từ các ngày trước đó, những trai làng đã vào hội hương ẩm được cử đi mua
“gỗ” đóng thuyền. Nhưng đó là mua gỗ gì và mua ở đâu?
Lệ làng là đi “mua gỗ”, nhưng thực ra là đi đến các xóm bãi
ven sông Hồng, nơi có hàng ngàn cây chuối tại các vườn nhà. Đến nơi đó, các
trai làng phải khéo léo xin được cất những tàu lá chuối dài nhất, to nhất đem về
đóng thuyền lễ.
Và cũng có một mối quan hệ kỳ lạ, hàng năm những xóm bãi ven
sông đều hồ hởi tiếp khách, hưỡng dẫn khách “mua” chọn những cây to để có tàu
lá đẹp về đóng thuyền Tiên chúa. Họ tin rằng góp phần nhỏ như vậy sẽ được Tiên
chúa phù hộ cả năm.
Những tàu lá thu được mang về sân đình, và được các cụ chọn
lựa từng tàu, bỏ đi những tàu lá rách, hoặc có vết sâu trên bẹ. Sau khi chọn,
các cụ dùng dao dọc bỏ lá, xếp ba cái bẹ làm một, dùng đinh tre đóng xuyên qua,
ghép so le cho chắc chắn. Để làm được thuyền cũng phải chọn người có chân trong
hương ẩm, trong tư văn mới được giao việc.
Ngày trước, ở thôn Bầu có cụ Khán Đốc, cụ Khán Thôn, cụ Khán
Oanh, cụ Khán Giữa, cụ Ba Lung đều là những người biết đóng thuyền, tiếc rằng
nay các cụ đều đã quy tiên. Làm thuyền xong, các vị trang hoàng trên thuyền.
Con thuyền hoàn thành có kích thước 2,5x1,8m, nhưng trên đó
có cả linh xa tám mái và cờ, quạt. Những thứ đó đều là hàng mã do gia đình cụ
Chồi ở xóm Đông Nhất làm. Đó cũng là gia đình làm mã giỏi nhất thời đó.
Ngày 11 làm lễ tế cáo với Thành hoàng. Hôm đó, sau lễ tế,
các dòng họ trong thôn cùng khách thập phương làm lễ. Lễ tế xong, mọi người chuẩn
bị cho đám rước ngày hôm sau. Người ta làm lễ quay mũi thuyền ra phía trước, sửa
sang lại những chỗ trên thuyền cho chắc chắn để hôm sau rước.
Ngày 12 đám rước khổng lồ được tiến hành, có cờ hiệu các
Thánh, có người mang bát bửu, lộ bộ đi trước cùng với dàn nhạc dân tộc. Sau dó
mới đến cờ, tàn, lọng, quạt và xúm xít đi chung quanh bốn cỗ kiệu bát cống theo
thứ tự: ngài Cao Sơn, ngài Thanh Sơn và ngài Linh Sơn.
Đi cuối cùng là kiệu của Đức Bà. Từ kiệu thờ của Đức Bà có một
phù kiều bằng lụa dài, do các bà vãi trong làng đội. Phù kiều đó nối từ kiệu tới
thuyền như một sợi dây kéo thuyền theo kiệu Tiên Chúa.
Đám rước đi tới đền Tiên Chúa thì quay về đình. Riêng kiệu
Tiên chúa rước vào đền để các quan viên làm lễ tế và các bà làm lễ dâng hương.
Lễ xong, mới nâng thuyền lên đi ra trầm Bầu, nhẹ nhàng thả xuống diễn lại tính
chúa Tiên Dung thanh thản dạo chơi trên sông nước.
Về điển lễ thờ ngài Cao Sơn Đại vương nên làng có kiêng cữ:
đó là làng kiêng chữ “Cao”, thường đọc là Kiêu, còn vật phẩm cúng tế không
kiêng kỵ. Trong ngày vui xuân, thôn tổ chức đánh đu, đánh cờ người, võ vật.
Bây giờ trầm Bầu cũng đã khác xưa. Nhiều nơi đang được đắp
thêm nền để làm đường mới, nối từ đường số 5 về khu công nghiệp. Nhớ lại câu ngạn
ngữ: “Cá trầm Bầu - trâu Cổ Điển - kiến Thọ Đa”, các cụ nói rằng trầm Bầu nhiều
cá, Cổ Điển trâu tốt và khỏe, còn kiến Thọ Đa có nghĩa là đất Thọ Đa cao, khi
có mùa nước, kiến chạy tổ khắp nơi về gò cao Thọ Đa nên ở đó có nhiều loại kiến.
Vui câu chuyện, các cụ
còn kể về sông Thiếp, thì ra con sông này vốn xưa là nơi thanh vắng, các thê
thiếp nhà quan thường ra tắm nên có tên là sông Thiếp.