Đền Nghè - Đình Đông là di tích lịch sử, vốn được xây dựng tự nhiều đời nay tại khu vực Bãi Nghè thuộc khu 3 thôn Đông Thành xã Văn Lang nằm sát quốc lộ 32. Đền và Đình thờ phụng Nhị vị tướng tài Lê Ả Lan và Lê Anh Tuấn, đã có công phò giúp nhị vua Hai Bà Trưng đánh giặc Đông Hán, giành lại non sông đất nước.
Dải đất xã Văn Lang nói riêng và Hạ Hòa nói chung qua sử
sách ghi lại thì miền đất này thuộc bộ Văn Lang, thời Hán, thế kỷ thứ 2 trước
công nguyên đến thế kỷ thứ 3, thuộc huyện Mê Linh - quận Giao Chỉ, đến thế kỷ
thứ 10 thuộc huyện Đức Hòa - Phong Châu.
Đến đời Lê - Lý - Trần thuộc miền đất Hạ Hòa, đạo Châu
Giang, lộ Tam Giang. Thời Hậu Lê, đầu Nguyễn thuộc Hạ Hòa, phủ Thao Giang, trấn
Sơn Tây, và từ cuối thế kỷ 19 có tên gọi là xã Văn Lang, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú
Thọ
Sự kiện nhân vật lịch sử của di tích: Đền Nghè là điểm thờ
phụng Nhị vị tướng tài Lê Ả Lan và Lê Anh Tuấn, đã có công phò giúp nhị vua Hai
Bà Trưng đánh giặc Đông Hán, giành lại non sông đất nước.
Tương truyền lúc đó vào thời Đông Hán ở Trung Quốc, tại xứ
Đường Lâm thuộc Sơn Tây có 2 vợ chồng ông Lê Tuân và Đặng Thị Thẹ thuộc dòng Lạc
thị, ông làm nghề dạy học và làm thuốc cứu người, bà lao động cần cù, kính hiếu
cha mẹ, sống lương thiện, nên nhân dân xa gần ai cũng kính trọng.
Khi hai ông bà tuổi đã cao nhưng chưa có con nên thường đem
của cải đi phân phát cho người nghèo, đồng thời đi lễ các đền miếu để cầu tự.
Có lần đi du ngoạn đến Văn Lang thấy có một ngôi miếu linh
thiêng (nay là miếu Nam Sang) liền sửa lễ cầu con. Khi về bà có thai, đến ngày
12 tháng Giêng năm Giáp Dần ông bà sinh được một trai, một gái. Người con gái
ra trước là chị. Ba năm sau các con đã lớn ông bà đặt tên cho con gái là Ả Lan,
con trai là Anh Tuấn. Ít sau cha mẹ qua đời, 2 chị em làm lễ an táng cho cha mẹ.
Sau 3 năm đoạn tang, hai chị em cũng lớn khôn, khỏe mạnh hơn người, giỏi cả văn
võ, có tài thao lược, thường tập trung thanh niên trong làng luyện tập võ nghệ,
sẵn sàng bảo vệ làng xóm, được người theo dưới trướng rất đông.
Lúc này đất nước ta đang bị nhà Đông Hán chiếm đóng và thống
trị. Thái thú quận Giao Chỉ là Tô Định cai trị rất tàn ác, sưu cao thuế nặng,
thực hiện nhiều cuộc hành binh tàn sát dân lành. Trong những cuộc đàn áp đẫm
máu, Thi Sách, chồng vua bà Trưng Trắc khi tìm cách tập trung những người cùng
chí hướng đứng lên chống giặc ngoại xâm đã bị Tô Định giết hại. Nợ nước, thù
nhà, nhị chúa bà Trưng Trắc và em là Trưng Nhị đã bí mật tập trung lực lượng, dấy
cờ khởi nghĩa đánh giặc ngoại xâm, người dân khắp nơi hưởng ứng hịch của Nhị
vua Bà, tham gia vào cuộc khởi nghĩa rất đông.
Ở xã Đường Lâm, hai chị em Lê Ả Lan và Lê Anh Tuấn, nghe được
tin nhị vua Hai Bà Trưng dấy cờ khởi nghĩa đã chiêu mộ hơn hai nghìn dân binh,
cùng kéo về Mê Linh đầu quân. Thử tài thao lược, võ nghệ của hai chị em, Nhị
vua Trưng Trắc – Trưng Nhị rất hài lòng, sắc phong bà Lê Ả Lan là Nội Thị Tướng
Quân, ông Lê Anh Tuấn được phong là Chỉ huy xứ Đại tướng quân, giao cho hai chị
em dẫn binh về vùng Văn Lang lập đồn trại, chiêu tập binh mã đánh.
Hai vị tướng quân Lê Ả Lan và Lê Anh Tuấn dẫn binh về vùng
Văn Lang, chọn vùng đất có địa thế dễ thủ khó công đóng trại lập ấp làm căn cứ
đánh giặc. Đồng thời mổ trâu để yết cáo với
Thiên địa sơn thủy bách thần, úy lạo quân sỹ và dân làng cùng đồng tâm
đánh giặc, hôm đó là ngày 13 tháng 3 âm lịch.
Một ngày tốt, theo hịch của Nhị vua Hai Bà Trưng, nhị
danh tướng Lê Ả Lan và Lê Anh Tuấn dẫn
quân về Mê Linh, hợp binh với đại quân của Nhị vua Hai Bà Trưng, khởi binh từ
sông Hát đánh về Lũy Lâu, thủ phủ cai trị của thái thú Tô Định. Quân giặc thua
to, thái thú Tô Định tháo chạy về nước. Quân binh Nhị vua Hai Bà Trưng ồ ạt tiến
công đánh đuổi quân Đông Hán, thu hồi 64 thành trì của đất nước.
Sau khi giành được thắng lợi, Chúa bà Trưng Trắc Trưng Nhị
lên ngôi vua trị vì thiên hạ. Hai vị tướng quân, bà Lê Ả Lan và ông Lê Anh Tuấn
trong cuộc khởi nghĩa đã có nhiều chiến công, được Trưng Vương ban cho đạo Tây
Sơn, thực ấp địa đầu Thao Giang để luyện binh, sẵn sàng đánh giặc.
Dân gian truyền lại rằng: hai chị em đều hóa (tức chết) tại
cánh đồng Sang, dưới chân núi Am Thuộc xã Văn Lang vào ngày 25/8 âm lịch. Truyền
thuyết kể lại rằng, hôm đó hai vị danh tướng đi thăm doanh trại tại khu núi Am,
bất chợt có một cơn đại phong, ác vũ, mưa bão, sấm sét dữ dội nhưng diễn ra
nhanh chóng, trong khoảnh khắc mưa bão tan, tướng sỹ đi tìm thủ lĩnh chân núi
Am chỉ thấy giáp phục và hình tích của hai vị, vội báo tin về Mê Linh.
Sau khi nhận tin hai vị danh tướng đã hóa, nhị vua Hai Bà
Trưng thương tiếc, sắc chỉ cho trang Văn Lang lập miếu thờ, sắc phong cho hai vị:
- Sắc phong cho bà Lê Ả Lan thần hiệu: Ả Lan Nương Đức Hạnh
Đoan Trang Công Chúa và mỹ tự "Hằng Nga Uyển Mỵ Trinh Phụ Phu Nhân"
- Sắc phong cho ông Lê Anh Tuấn thần hiệu: Lê Anh Tuấn Hiển
Vinh Uy Dũng Đại Vương và mỹ tự: "Tế Thế Hộ Quốc An Dân, Phu Vạn Quảng Đại
Cao Minh, hiệu Hựu Hùng Chấn Đại Vương Thượng Đẳng Thần".
Nhân dân địa phương tôn xưng hai vị "sinh vi tướng, tử
vi thần" là phúc thần, thờ phụng là thành hoàng từ đó
Các triều đại đời sau đều có sắc phong:
Đời vua Trần Nhân Tông có sắc phong: "Đức Vua Bà Ả Lan
Nương Ngọc Phận Hằng Nga Công Chúa" và "Đức Vua Ông Hiển Hựu Trợ Thuận
An Uy Hùng Tuấn Đại Vương Thượng Đẳng Thần"
Đời vua Lê Thái Tổ có sắc phong: "Ả Lan Nương Huê Hòa Đức
Hạnh Trinh Thục Công Chúa" và " Phả Kế Cương Nghị Hùng Kiệt Tuấn
Khanh Đại Vương"
Tôn vinh và ghi nhớ công đức của hai vị tướng quân, đến nay nhân
xã Văn Lang có ban khánh tiết địa phương thực hiện công tác quản lý, bảo vệ
trông coi và tổ chức tế lễ ngày tuần ngày tiết cho Nhị vị Thành hoàng. "Lễ
tiệc và hèm tục" cụ thể như sau :
1. Ngày mùng 10 tháng Giêng: "Lễ cầu phúc rước nước",
lễ rước nước để thờ cúng phúc thần quanh năm. Trong lễ Rước nước có hèm tục diễn
Đánh trận giả, mô tả lại đạo binh của nhị vị tướng quân cùng đại quân Nhị vua
Hai Bà Trưng đánh giặc
2. Lễ tiệc ngày sinh Nhị vị tướng quân: ngày 12 tháng Giêng
(âm lịch) hèm tục cúng lợn đen múa hát 3 ngày liền.
3. Lễ tiệc khao quân: vào ngày 12 tháng 3 (âm lịch). Hèm tục:
là mổ trâu đen "gọi là bì oa trữ nhục" tức là lấy da trâu căng làm nồi
nấu thịt.
4. Ngày hoá 25/8, Lễ tiệc tôn vinh công đức nhị vị Thành
hoàng, hèm tục là cúng Lợn đen, xôi đỏ, hương hoa ngũ vị.
Đền Nghè
Đình Đông
Lễ Rước nước truyền thống trong lễ hội Đền Nghè – Đình Đông.
Lễ Rước nước truyền thống trong lễ hội Đền Nghè – Đình Đông.
Hằng năm, vào ngày mùng 10 tháng Giêng (ngày chính lễ), bà con nhân dân trong xã sẽ tụ hội, cùng nhau sửa soạn lễ vật, tổ chức lễ tế. Mở đầu lễ hội là nghi lễ Rước nước từ đền Nghè, đi đầu là cờ quạt rồi tới phường bát âm, tiếp đến là kiệu long đình trên đặt chiếc chóe (chiếc bình gốm sứ men lam vẽ rồng - phượng để đựng nước Thánh), hai bên có lọng che.
Khi đội rước gần đến bến sông sẽ dừng lại cho đội cờ chạy quanh ba vòng, vừa chạy vừa hú to để diễn lại tích quân của Hai Bà Trưng đánh đuổi quân Tô Định. Đến bờ sông, kiệu dừng lại trên bờ, đoàn khiêng chiếc chóe đặt lên thuyền chở tới giữa dòng sông, các cụ cao niên trong làng chọn vùng nước trong, sạch nhất sông lấy gáo đồng múc nước đổ vào chóe. Sau đó chóe nước được đưa lên kiệu và rước về đền Nghè nơi thần linh án ngự, trước khi rời bến sông đội cờ lại chạy ba vòng quanh đám rước như lúc đầu.
Sau lễ Rước nước là nghi thức đại lễ, đây là nghi thức trang trọng nhất để dân làng dâng cúng các vật phẩm như: Hoa quả, bánh kẹo, xôi... Ngoài ra, hội làng Văn Lang còn tổ chức nhiều trò chơi dân gian khác như: Cờ tướng, chọi gà, bịt mắt bắt dê, kéo co... làm tăng thêm phần hấp dẫn của lễ hội truyền thống.
Lễ hội Đền Nghè - Đình Đông gắn liền với tín ngưỡng thờ nông nghiệp của người Việt cổ. Nghi lễ Rước nước đã có từ lâu đời, mang giá trị to lớn với người nông dân, nhằm cầu cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu, người người mạnh khỏe, an khang, gia đình ấm no hạnh phúc. Việc tổ chức lễ hội Đền Nghè - Đình Đông hằng năm đã thể hiện trách nhiệm và lòng thành kính, tri ân công đức của các vị tiền nhân. Đây là nét đẹp văn hóa góp phần giáo dục cho các thế hệ trẻ về lòng yêu nước, đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, lòng tự hào dân tộc”.
Một số hình ảnh tại lễ hội:
Đền Nghè – Đình Đông ngày nay không chỉ là điểm thờ phụng nhị
vị danh tướng của Nhị vua Hai Bà Trưng, có công với dân với nước mà còn là minh
chứng cụ thể cho sự nghiệp đấu tranh dựng và giữ nước của tổ tiên ông cha ta
qua hàng ngàn năm lịch sử, ý chí đấu tranh mãnh liệt vì độc lập chủ quyền của
dân tộc Việt Nam.
Đền Nghè - Đình Đông là một di tích nằm trong quần thể di
tích cổ của xã Văn Lang, đã được Bộ Văn hóa và Thông tin xếp hạng di tích nhà
nước và cấp bằng công nhận là di tích lịch sử văn hóa ngày 28/1/1992.
Nguồn: Báo Phú Thọ