Đền Ta thuộc làng Đông Cao, xã Tráng Việt, huyện Mê Linh, Thành phố Hà Nội - là địa điểm thờ phụng nữ tướng Hồ Đề, Nguyên soái của Nhị vua Hai Bà Trưng Quốc Vương Thiên Sớ Ả Lự Nàng Đê, lưu truyền nhiều tư liệu, câu chuyện về bà. Đền thờ nữ danh tướng chỉ cách Đền thờ Hai Bà Trưng một con đê.
Làng Đông Cao nay thuộc xã Tráng Việt, huyện Mê Linh,
Hà Nội. Làng nằm phía trước Đền Hai Bà Trưng, cách Đền Hai Bà một con
đê. Trong làng có một ngôi đền thường gọi Đền Ta (đền của làng mình) đền
thờ Nữ tướng Hồ Đề- danh tướng của Nhị vua Hai Bà Trưng. Tương truyền sau khi
thắng trận trở về, Nữ tướng thường dừng ngựa và khao quân tại đây, dân
trong làng đi cắt cỏ cho ngựa, đồng thời tổ chức làm tiệc bánh giầy,
bánh trôi để dâng cho các tướng sĩ. Sau khi Nữ tướng mất dân làng lập
đền thờ để ghi nhớ công lao của Bà và các tướng sĩ.
Đền trước đây gồm đền chính phía trong và đền ngoài. Đền chính
hầu như con nguyên vẹn vẻ cổ kính, mái lợp ngói mũi cổ, mũi mái được đắp
hình hai con rồng, cửa đền nhìn hướng đông nam; cửa đền đắp tượng hai
ông quan văn và quan võ; phía trong có nhiều tượng của tướng Hồ Đề và
các phó tướng của Bà. Đền ngoài là một dãy nhà trống;ngay giữa cổng
chính vào là Bia ghi tóm tắt về tướng Hồ Đề.
Đền được công nhận di tích
lịch sử văn hoá năm 1988, do Bộ trưởng Văn hoá Trần Hoàn ký. Hàng năm
vào ngày 1 tháng
hai làng Đông Cao mở Hội làng. Hội làng có nhiều trò chơi dân gian và
thi làm cỗ, văn nghệ giữa các xóm với nhau như: bịt mắt đập niêu, vượt
cầu tre, đi xe đốt pháo; thi làm bánh giầy. Ngày nay còn tổ chức thi cầu
lông, bóng đá. Riêng đấu vật và cờ tướng thì gồm cả các thôn khác trong
xã. Đây cũng là một điểm nằm trong tua du lịch Sông Hồng. Cùng với Đền
Hai Bà Trưng, Đình Hạ Lôi - đền thờ Nữ tướng Hồ Đề năm trong quần thể di
tích lịch sử Hai Bà Trưng.
Đền thờ nữ tướng Nguyên soái của Trưng Vương, là Quốc Vương Thiên Sớ Ả Lự Nàng Đê, dòng dõi họ Hùng, đổi sang họ Hồ.
Câu đối trong đền:
貉後雄間梃出皇家柱石
傘西瀘北奠安祖國山河
Lạc hậu Hùng gian, đĩnh xuất hoàng gia trụ thạch
Tản Tây Lô Bắc, điện an tổ quốc sơn hà.
Dịch nghĩa:
Sau Lạc khi Hùng, sinh xuất hoàng gia đá trụ
Tây Tản Bắc Lô, giữ yên tổ quốc núi sông.
Câu đối khác:
雄末出英才乃文乃武乃聖乃神輔國勳高終古在
東庄隆祀典為風為雲為河為海應靈聲自半天來
Hùng mạt xuất anh tài, nãi văn nãi võ nãi thánh nãi thần, phụ quốc huân cao chung cổ tại
Đông trang long tự điển, vi phong vi vân vi hà vi hải, ứng linh thanh tự bán thiên lai.
Dịch nghĩa:
Cuối thời Hùng xuất anh tài, là văn là võ là thánh là thần, giúp nước rạng ngời còn từ cổ
Trang ấp Đông tích thờ tỏ, làm gió làm mây làm sông làm biển, ứng thiêng tiếng vọng giữa trời về.
Lễ nhập tịch ngày hóa của nữ vương Hồ Đề vào ngày 1 tháng 6 âm lịch tại làng Đông Cao.
Vùng đất Thái Nguyên đầu Công Nguyên thuộc huyện Tây Vu,quận
Giao Chỉ. Vùng đệm hay gọi cách khác là cầu nối giữa vùng đồng bằng châu thổ
các con sông mẹ và vùng núi cao, thâm sơn cùng cốc, núi non hiểm trở, hang động
nhiều, là nơi cát cứ vững chắc của các Lạc hầu, Lạc dân và tù trưởng giàu mạnh.
Chính sử chép: ”Khi cuộc khởi nghĩa của Nhị vua Hai Bà Trưng
phát động tại vùng Mê Linh, lập tức được sự hưởng ứng của các Lạc hầu, Lạc tướng,
Lạc dân cúa Chu Diên, Tây Vu, sau lan sang các quận Cửu Chân, Nhật Nam”… Thái
Nguyên ngày ấy giáp Mê Linh, lại nằm trong đường tiến quân xuống Cổ Loa, Long
Biên, Lãng Bạc, nơi có các trận đánh lớn với quân thù. “Vùng Hà Châu, Chợ Chã của
Thái Nguyên có một vị trí thuận lợi hành tiến cả thuỷ, bộ, các Lạc tướng, Lạc hầu
đã chốt chặn giặc ở ngã ba sông Cầu và sông Công hiệu quả.
Chính vì thế, Thái Nguyên trở thành vùng phên dậu chiến lược,
đóng một vai trò cầu nối,nơi cung cấp cơ sở vật chất cùng sức người trong cuộc
khởi nghĩa do nhị vua Hai Bà Trưng lãnh đạo”.
Còn huyền sử, trong dân gian nhiều trăm năm lưu truyền câu
chuyện về một phụ nữ tài giỏi, cai quản tới 70 động vùng Lũng Mai, Thiên Sớ
(Thái Nguyên) có tên là Hồ Đề, kéo quân theo Hai Bà, lập công lớn được Trưng Trắc
phong làm phó nguyên soái.
Trong số 97 vị nữ tướng được thờ tại Đền Hai Bà Trưng, nữ tướng
Hồ Đề được xếp ngay đầu danh sách. Bà là 1 trong 6 nữ tướng có vị trí quan trọng
hàng đầu dưới triều Hai Bà, trấn giữ hai miền: Đông Bắc và Tây Bắc. Và hiện
nay, vùng Tây Bắc và Đông Bắc đền thờ Hai Bà Trưng vẫn có đền thờ của hai nữ tướng
Hồ Đề và Kiều Hoa hướng về kinh đô xưa.
Trong đó Đình làng Đông Cao, xã Tráng Việt, huyện Mê Linh,
T.P Hà Nội - là địa điểm còn lưu truyền nhiều tư liệu, câu chuyện về nữ Phó
nguyên soái Hồ Đề. Đền thờ bà chỉ cách Đền thờ Hai Bà Trưng một con đê. Theo
tài liệu của Lễ bộ Thượng thư Nguyễn Bính - người phụ trách việc cấp sắc phong
cho các thần soạn vào niên hiệu Hồng Phúc (1572-1573), bản hiện lưu giữ ở Thư
viện Khoa học Xã hội Việt Nam và bản Ngọc Phả được lưu giữ ở Đền thờ Hồ Đề làng
Đông Cao, Hồ Đề được khắc họa như sau: Hồ Công An là hậu duệ thứ 27 của người
con thứ 48 của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Ông đổi từ họ Hùng sang họ Hồ. Vợ cả mất,
Hồ Công An lấy vợ kế là bà Bạch Thị Phương - con gái út của Lạc tướng Bạch Thái
Hoa. Năm Nhâm Tuất - ngày 4-1 mãn nguyệt khai hoa, bà sinh được một cô con gái,
đặt tên là Đề Nương công chúa. Hồ Đề - Đề nương công chúa có 1 người em trai
tên Hồ Hác. Bà Bạch Thị Phương vốn con nhà tướng, võ nghệ tinh thông; bà chú ý
dạy các con mọi đường cung kiếm, lại đón thầy về dạy con các môn đao kích.
Trong quyển Nữ Tướng thời Trưng Vương do NXB Phụ Nữ- Hà Nội ấn
hành năm 1976 do nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Khắc Xương (con trai
nhà thơ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu) có đoạn bà Bạch Thị Phương vẫn thường răn bảo
các con: "Tô Định giết quan huyện lệnh Chu Diên Đặng Thi Sách là người
trung nghĩa, sát hại nhiều con em dòng Lạc hầu, Lạc tướng. Dân ta bị giặc róc
xương hút tuỷ, oán giận đầy lòng. Lúc này chính là lúc các con cần đến võ lược.
Việc học tập, các con phải chuyên cần, không được trễ nải".
Tiếng tăm võ nghệ của Hồ Đề và Hồ Hác đến tai Tô Định - tên thái thú rất tham tàn, bạo ngược. Tô Định
sai quân đến mời Hồ Công An đến. Xảy ra một vài sự giao tranh giữa quân nhà Hán
với chị em Hồ Đề, Hồ Hác, Hồ Công An lo lắng cho sự yên bình của các con, đau yếu
rồi qua đời. Làm tang cho chồng xong, Bà Bạch Thị Phương biết Tô Định không thể
nào để mẹ con mình sống yên ổn mới gửi lại trang trại, cùng hai con và một số
gia nhân thân tín tìm chốn ẩn náu.
Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Khắc Xương công tác tại
Ty Văn hóa Phú Thọ (những năm 70 của thế kỷ trước). Trong thời gian công tác,
ông đi nhiều nơi, gặp nhiều người để tìm lại những cứ liệu lịch sử tại các đền,
đình thờ những nữ tướng thời Hai Bà Trưng.
Trong đó nữ tướng Hồ Đề là nhân vật đã khơi nguồn cảm xúc để
ông viết nên tập truyện dã sử “Nữ tướng thời Trưng Vương” được xuất bản đầu
tiên vào năm 1976. Và được tái bản lần 2 mới đây vào cuối năm 2014 với hơn
1.000 bản (như đã nói ở phần đầu bài viết, do quá trình tìm hiểu của chúng tôi
ngót 10 năm, nên khi còn sống,vào năm 2014, khi trả lời phỏng vấn của chúng
tôi, Nhà văn hoá Nguyễn Khắc Xương luôn khẳng định Hồ Đề dấy binh, đem theo cả
vạn thần dân từ vùng núi Thiên Sớ - Thái Nguyên theo về phò tá Trưng Vương).
Đáng chú ý trong cuốn sách “Nữ tướng thời Trưng Vương” có đoạn
khắc họa khá chi tiết về vùng đất Thiên Sớ - Thái Nguyên ngày nay - là nơi ẩn
náu, chiêu tập binh mã, tích trữ lương thảo, luyện binh và cũng là nơi dấy binh
khởi nghĩa của chị em Hồ Đề, Hồ Hác.
Theo đó, Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Khắc Xương
đã viết: Núi rừng Thiên Sớ có nhiều động lớn nhỏ, cai quản mỗi động là một
chúa. Động Lão Mai là một động lớn trong số 72 động của núi rừng Thiên Sớ, nằm
giữa các thung lũng lớn mùa xuân trắng hoa mận mơ, mùa hè vàng quả chín.
Hơn ba chục nóc nhà sàn rải rác dọc một con suối lớn, suốt
ngày đón gió vì thung này nằm dọc hướng Đông Nam, ở đây nhà nào cũng có trâu
đàn, nghé bầy, có gà đầy sân, lợn dăm bảy con thả rông quanh nhà. Dân phát
nương tra ngô và lúa. Vùng này có nhiều thú rừng nên trâu không được thả xa,
cho đeo mõ và thả gần động.
Nhà nào cũng có nỏ và giáo, mùa đông lấy da thú làm chiếu nằm.
Dân động thật thà, hiếu khách nhưng tính tình hung tợn, ưa sự đánh nhau với các
động khác. Con gái cũng phóng lao bắn nỏ như trai.
Chúa động Lão Mai là một nữ tù trưởng họ Hoàng nhận Hồ Đề và
Hồ Hác làm con nuôi, giúp cho ba mẹ con và các gia nhân một chiếc nhà sàn năm
gian, lại cấp cho trâu, lợn làm vốn liếng.
Tại động Lão Mai, hai chị em Hồ Đề và mẹ luôn nghĩ tới sự
nghiệp lớn, thế nào chả có lúc trói Châu úy, phá Châu lỵ, phải kết giao hào kiệt,
xây dựng nghĩa quân. Bà Bạch Thị Phương thấy dân các động đều thiếu muối ăn, phải
đốt nứa mà ăn tro để lấy chất mặn, lại thiếu cả chỉ thêu nên sai con trai Hồ Hác
mở con đường vượt qua dãy Tam Đảo đem muối về bên động Lão Mai làm quà đi lại kết
giao các động. Hồ Đề tổ chức ở Lão Mai một đội nam binh và một đội nữ binh, dạy
dân cày vỡ các tràn ruộng rộc để lấy thêm lương thực, đồng thời cùng giúp đỡ
các động khác.
Trong quá trình đó, Hồ Đề nắm được đa số các chúa động đều
căm thù giặc Đông Hán. Chúa động Lão Mai thấy khí chất Hồ Đề liền giao cho Hồ Đề
thần phục con voi trắng chéo ngà rồi tôn xưng Hồ Đề - Đề nương công chúa là
Thiên Sớ đại vương. Thiên Sớ đại vương Hồ Đề mới 21 tuổi tài trí hơn người,
cùng dân các động Thiên Sớ lo lương thực và khí giới chống nhà Hán. Châu Úy,
Châu Lỵ, phủ thái thú của giặc Hán đem quân tiễu phạt đều bị nghĩa quân Thiên Sớ
đại vương đánh cho thất điên bát đảo.
Khi được tin Hai Bà Trưng tụ nghĩa ở Mê Linh chống giặc Hán,
quốc vương Thiên Sớ Hồ Đề kéo theo hàng nghìn quân binh về tụ nghĩa, tế cờ.
Nữ tướng Hồ Đề quyền kiêm cả nội ngoại binh, đổi tên là Ả Lự
Tướng quân, có tài liệu ghi là Trấn Viễn đại tướng quân. Kéo quân về đồn binh tại
khu ngoài - ven sông Cái tại Đông Cao Trang (làng Đông Cao ngày nay). Trong cuộc
khởi nghĩa Hai Bà Trưng, nữ tướng Hồ Đề giữ chức vụ ngang với Trưng Nhị nhưng
các tài liệu còn chưa thống nhất rằng bà là nguyên soái hay phó nguyên soái.
Tế lễ xong, chia quân làm 2 đạo: Thủy – bộ, tiến cùng đại
quân đánh Tô Định. Quân Hán thua chạy, nghĩa quân của Hai Bà Trưng thu phục hơn
60 thành trì, khôi phục được nghiệp xưa của vua Hùng. Bà Trưng Trắc được bách
quan văn võ tôn phò làm vua toàn cõi. Thiên hạ thái bình, dân chúng yên vui.
Nguyên soái Hồ Đề mang quân bản hộ về Đông Cao Trang để khao
thưởng quân sỹ và thưởng tiền bạc cho dân mở hội 3 ngày vào ngày mồng 1 tháng 2
âm lịch. Ngày phó soái Hồ Đề khao quân được người đời sau lấy làm ngày lễ hội,
nhằm tưởng nhớ công lao nữ tướng Hồ Đề. Và có thơ vịnh rằng:
“Sinh vi vương tướng, tử vi thần
Vạn cổ lưu truyền nguyệt đức tân
Hương hoả Đông Cao nhàn tề nguyệt
Tích tôn quốc thái, ức niên xuân”.
Dịch nghĩa: Sống làm tướng, chết làm thần / Vạn năm còn lưu
truyền bến tân sông Nguyệt Đức / Đông Cao nhận phần cúng tế hương khói / Danh
tiếng Bà còn lưu lại cho đất nước mãi mãi.
Nền độc lập kéo dài vỏn vẹn trong 2 năm. Năm Tân Sửu 41, nhà
Hán sai Mã Viện đưa 20 vạn quân sang xâm lược nước ta. Nhị Thánh vương Trưng Trắc
và Trưng Nhị cùng các tướng lĩnh đưa quân ra chống giặc từ biên giới, các trận
chiến ác liệt đã diễn ra ở Lãng Bạc, Đông Triều, Yên Phong, Hà Bắc.
Nhị vua Hai Bà Trung thu quân rút về giữ ở Cấm Khê (Thạch Thất
- Quốc Oai), hàng vạn người Việt đã ngã xuống trong các trận chiến ác liệt để bảo
về Tổ quốc thiêng liêng của mình. Ngày 6 tháng 2 năm Quý Mão (43), sau khi đã
phóng những mũi lao và bắn những mũi tên cuối cùng vào kẻ thù, Nhị vua Hai Bà
Trưng gieo mình xuống dòng sông Hát Giang tuẫn tiết.
Đó là sự kiện có một không hai trong lịch sử Việt Nam và lịch
sử thế giới. Cuộc khởi nghĩa lật đổ nhà Hán đô hộ của Hai Bà Trưng là trang sử
vàng chói lọi của đất nước ta vào những năm đầu Công nguyên. Thắng lợi này thật
huy hoàng khi đế chế Hán ở Trung Quốc đang bước vào thời kỳ hưng thịnh. Cuộc khởi
nghĩa vang lừng cho thấy chiến công hiển hách của những nữ tướng anh hùng dân tộc
đầu tiên, những người phụ nữ tưởng chừng chân yếu tay mềm, đã đứng dậy đánh đuổi
quân thù với một ý chí keo sơn son sắt và một khí thế trời long đất nở.
Sau khi Nhị vua Hai Bà Trưng tử tiết, Hồ Đề chống giặc cho tới
cùng rồi gieo mình dưới sông Nguyệt Đức. Cho đến tận hôm nay, Đền thờ nữ tướng
Hồ Đề tại làng Đông Cao vẫn còn 4 chữ: Vạn Cổ Phúc Thần. Làng Đông Cao đời đời
nhớ ơn công đức của hai chị em: Bà Hồ Đề, ông Hồ Hác.
Đã từ ngót hai nghìn năm nay, vào ngày đầu tiên của tháng 2
âm lịch, người dân làng Đông Cao lại tổ chức Lễ hội tưởng nhớ công lao của
nguyên soái Hồ Đề, vị nữ tướng tham gia khởi nghĩa Hai Bà Trưng và lập nhiều
chiến công hiển hách. Hồ Đề tụ nghĩa, dấy binh từ mảnh đất Thiên Sớ - nay là tỉnh
Thái Nguyên.Lễ hội tôn thờ các vị tướng thời Hai Bà Trưng, đoàn rước kiệu đều
do nữ nhi phụ trách. Sau khi đoàn rước về đến đình Đông Cao, những nghi thức
chính của Lễ hội sẽ được diễn ra nhằm tưởng nhớ công ơn của nữ tướng Hồ Đề.
Khai mạc lễ hội, nhân dân Đông Cao, Tráng Việt ôn lại truyền thống chống giặc
ngoại xâm oai hùng gắn liền với cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, công lao của nữ
tướng Hồ Đề.
Cùng với Đền Hai Bà
Trưng, Đình Hạ Lôi - đền thờ Nữ tướng Hồ Đề nằm trong quần thể di tích lịch sử
Hai Bà Trưng. Hiện đền được quan tâm tôn tạo, bảo vệ không chỉ giúp cho việc bảo tồn các di sản
văn hóa phi vật thể gắn với di tích mà còn là cơ sở để phát huy các giá trị của
di tích, góp phần vào phát triển kinh tế địa phương.