Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, được nhân dân xây dựng và bảo tồn cẩn thận.
Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2
tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư
đông đúc. Từ trung tâm huyện Yên Lạc, du khách theo con đường trải nhựa chừng
300m sẽ đến ngay được khu Đền. Ai đã qua đây một lần sẽ không thể nào quên được
sự tuyệt diệu của một không gian Càn Khôn hòa nhập.
Một khu vườn cây um tùm quanh năm xanh tốt, những cành cây
vươn dài, tán lá xòe ra như bàn tay khổng lồ ôm lấy mái đền cổ kính, uy linh,
hương lúa, hương ngô ùa vào đền quện lẫn khói hương trầm ngan ngát.
Tiếng chuông trong ngần dội vào thinh không huyền ảo khiến
tâm hồn con người vơi bớt nỗi nhọc nhằn nơi trần thế. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng
uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến
trúc độc đáo.
Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một
ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một
lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy.
Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn
Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng
Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ.
Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn
Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát
rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng
ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều
phép thuật để cứu nhân độ thế.
Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc
Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp
nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính.
Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân,
dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ
chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền
Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản
đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy.
Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128)
miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng
(1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện
Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải
Định thứ 6 mới xong (1900-1921).
Di tích đền Bắc Cung là một quần thể kiến trúc theo hướng
Tây, trên khu đất rộng 10.000 m2. Khu đền gồm có 3 gian chính là tiền tế, trung
tế và hậu cung. Các gian được nối với nhau bằng các tòa ống muống.
Bên ngoài là khu đại bái, phía trước có sân lễ hội, tượng
Thánh Tản Viên đặt sừng sững giữa trời. Điểm đặc biệt trong kiến trúc đền Bắc
Cung là kết cấu theo hình chữ Vương. Các lớp cửa được chạm trổ cầu kỳ, sơn son
thiếp vàng với các đề tài tứ linh “ long – ly – quy – phụng” hoặc tứ quý “ tùng
– trúc – cúc – mai”.
Năm 1992, đền được công nhận là di sản văn hóa cấp quốc gia.
Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, đền trở thành địa điểm mở lớp dạy học
của trường chính trị huyện và nơi làm việc của Phòng Văn hóa Yên Lạc. Đã từ rất
lâu, mỗi khi Tết đến xuân về, đền Bắc Cung lại nô nức lễ hội quy tụ nhân dân
trong huyện và nức lòng du khách gần xa.
Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa
phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận
là di tích lịch sử văn hoá.
Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng
Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của
các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức.
Sáng mùng 6 tháng Giêng, nhân dân nô nức hướng về đền chính
để làm lễ khai xuân. Việc chuẩn bị cho lễ tế khá công phu. Trước tiên là chọn
những người đủ tiêu chuẩn tham gia tế lễ và đóng các vai chính trong đám rước.
Thông thường có từ 8 đến 14 cụ ông được chọn làm thành viên
trong đội tế khai xuân, tế dâng lễ, tế ngày sinh, hóa của đức Thánh Tản. Một cụ
hội đủ các điều kiện tốt nhất sẽ được chọn làm chủ tế; 2 cụ làm Đông sướng và
Tây sướng; 2 cụ bồi tế; 4 cụ tiến nước đèn, nhang, hoa, rượu,…một cụ đọc văn (đọc
trúc); 6 cụ chấp kích hai bên canh gác và xua đuổi tà ma cho cuộc tế. Những
công việc này đều do người dân Tam Hồng bầu chọn, cắt cử dưới sự điều hành của
ban tổ chức lễ hội.
Ban tế gồm 2 đội, một đội nam và một đội nữ, mỗi đội thường
gồm 21 người, trong đó có một người chủ tế. Người chủ tế phải là người có thẻ
Vinh tử vượng, phu phụ song toàn, tử tôn hưng thịnh, đồng thời phải khoẻ mạnh
…. Song song với việc chuẩn bị trên thì việc chuẩn bị đồ lễ vật cũng được tiến
hành.
Công việc chuẩn bị xong cũng là lúc lễ hội Đền Thính được diễn
ra. Sau lễ khai mạc của Ban tổ chức lễ hội, lần lượt từng thôn trong và ngoài
xã, theo lịch đã đăng ký tiến hành lễ rước từ Đình thờ của làng mình lên đền
Thính.
Khi đám rước của một thôn đến đền, cuộc tế lễ bắt đầu. Nội
dung văn tế kể về công lao của Thánh đối với dân làng; mời Thánh về dự hội với
dân làng, báo cáo thành tích của làng mình trong năm qua và cầu xin thánh phù hộ
cho dân một năm mới làm ăn thịnh vượng, nhà nhà yên bình, làng xóm yên vui, người
người mạnh giỏi.
Hội đền Thính như được náo nhiệt, vui vẻ hơn khi các trò của
ngày hội được mở. Các trò chơi dân gian được mở lại. Những trai làng cường
tráng để trần đóng khố hăng hái vào sới vật, những nữ tú khăn áo sênh sang tươi
cười bước đến đu quay; những cụ già râu tóc bạc phơ bên những chú gà chọi đỏ
màu lửa; nhưng thu hút nhiều người tham gia nhất vẫn là những bàn cờ tướng và
những trận cờ người.
Nam thanh, nữ tú rộn rã với bóng chuyền, cầu lông; các bà,
các chị cười nghiêng nón với những trò đập niêu đất, ném vòng, kéo co,…hàng
quán rộn rã chào mời, du khách đắm mình trong ngày hội, tiếng hò reo nô nức, cảnh
vật thật rộn rã, thái bình.
Cứ mỗi độ xuân về, đền Thính lại rực sắc cờ hoa, lòng người
lại nô nức khi mùa hội đến. Về Yên Lạc hôm nay, bạn hãy đến với ngôi đền cổ bên
dòng sông nhỏ hiền hòa để tận hưởng sự giao hòa sắc xuân của đất trời và để
lòng người ấm lại.