Đền An Dương Vương hay còn gọi là Đền Thượng nay thuộc xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội. Tương truyền, đền thờ An Dương Vương được xây trên nền nội cung của kinh đô Âu Lạc ngày trước. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, đền thờ An Dương Vương vẫn là điểm đến không thể bỏ qua của khách thập phương.
Đền thờ vua An Dương Vương còn gọi là đền Thượng được xây dựng
trên một quả đồi mà truyền thuyết nói là xưa có cung thất của vua. Di tích đền
Thượng có diện tích rộng khoảng 19.138,6m2, được xây dựng theo hướng Nam,
các công trình kiến trúc chính của ngôi đền nằm trên trục Dũng đạo (Thần đạo).
Hồ nước phía trước khu đền khá lớn, có hình cung tròn với bờ
cong tự nhiên được kè bằng đá, có lối đi và trồng cây xung quanh giữa hồ có giếng
Ngọc. Trước đây, hồ nước thông với hào của hai vòng thành ngoài và ra tận bến
sông phía Đông - Nam thành Ngoại. Theo truyền thuyết thì đây chính là hồ nước
mà Mỵ Châu - Trọng Thủy thường từ đây đi thuyền du ngoạn khi chưa xảy ra
cuộc chiến tranh xâm lược của Triệu Đà. Sau chiến tranh, Trọng Thủy nhảy xuống
đây tự vẫn vì ân hận đã gây ra cái chết của người vợ yêu quý.
Trong dân gian còn truyền tụng câu chuyện dòng máu của nàng
Mỵ Châu khi bị Vua cha chém đầu, rơi xuống biển, loài trai ăn phải thì hóa
thành ngọc trai, nếu đem về rửa ở giếng này thì ngọc càng thêm sáng và do đó giếng
nước giữa hồ trước đền Thượng còn có tên là Giếng Ngọc.
Đền thờ An Dương Vương nằm trên địa phận xóm Chùa, còn gọi
là đền Thượng. Trước đền là hai con rồng đá, sân đền lát đá xanh, theo bia ký,
đền xây dựng năm 1687 và sửa lại năm 1893.
Cổng đền thờ An Dương Vương - Ảnh: Sưu tầm
Đền được xây dựng trên một gò đất cao dưới chân lũy thành
cũ, góc tây – nam. Theo dân gian đó là đầu con rồng. Qua cổng ngoài của đền sẽ
tới tam quan cổ kính với lầu thượng cao, hai bên lối đi có hai giếng mắt rồng đối
xứng nhau. Bước qua tam quan là vào sân đền, hai bên sân có nhà khách cho người
thập phương dừng chân sửa lễ.
Nơi thờ An Dương Vương gồm có hạ điện là một ngôi nhà ba
gian to, cao, cột lim đồ sộ, tám mái cong vút. Từ tả hữu của hạ điện có hai dãy
nhà hành lang phía ngoài xây kín nối với thượng điện. Khoảng vuông ở giữa là một
ngôi nhà chồng diêm tám mái cao.
Sau tam quan là khu đền chính nằm trên nền đất cao. Phía trước là tòa nhà tiền đường, hai bên có hai cổng nhỏ
Thượng điện của đền - Các công trình chính của đền là tam quan, nhà tiền đường, thượng điện,
nhà bia và hai chiếc giếng cổ. Các đường nét kiến trúc của đền toát lên
nét rêu phong, cổ kính.
Thượng điện cũng
ba gian, bàn thờ An Dương Vương đặt giữa, bên đông thờ hoàng hậu, bên tây thờ
thái thượng hoàng. Trong cùng của thượng điện đền Cổ Loa là hậu cung, nơi có một khám lớn
bằng gỗ đặt ban thờ vua An Dương Vương. Trên ban thờ đặt tượng vua An
Dương Vương bằng đồng mặc triều phục được đúc năm 1897, nặng 255kg.
Hai bên khám thờ vua An Dương Vương có ban thờ Hoàng hậu và ban thờ Mẫu.
Bàn thờ Thần Kim Quy. Trên bàn thờ có tượng rùa vàng bằng gỗ sơn son thiếp
vàng và một chiếc nỏ đặt sẵn tên.
Phía Tây đền An Dương Vương trên một gò đất cao, xưa kia vua
lập miếu thờ Thần Nông, là nhà bia.
Miếu thờ Thần Nông
Tòa bi đình nằm ở bên phải khu đền.
Đây là nơi lưu giữ các bia đá cổ, trong đó có ba bia khắc năm 1606.
Cách cổng đền không xa, trước mặt là ao tròn, chính giữa là
một cồn đất tròn có giếng nhỏ ở giữa xây gạch. Tương truyền đó là giếng Ngọc,
nơi xưa kia Trọng Thủy nhớ Mỵ Châu đã nhảy xuống tự tử.
Giếng Ngọc trước đền An Dương Vương - Ảnh: Sưu tầm
Cách đền vài trăm mét là am Bà Chúa ở cạnh đình Cổ Loa. Nơi
đây có một cây đa cổ thụ trùm bóng mát lên am. Am Bà Chúa cũng có thượng điện
và hạ điện. Hạ điện là ngôi nhà nhỏ ba gian, ở giữa là bàn thờ. Cách đó một sân
nhỏ là thượng điện cũng ba gian. Gian giữa đặt bàn thờ công chúa Mỵ Châu, phủ vải
vàng lên bức tượng. Tượng chỉ là hòn đã tự nhiên có hình kỳ dị như pho tượng cụt
đầu. Hai bên là mười hai nàng hầu. Sau bàn thờ công chúa, vén bức màn ta sẽ thấy
một khối đá. Khối đá có ba bề xây kín, đó là mộ Mỵ Châu theo lời tương truyền của
dân gian.
Đình Cổ Loa cũng nằm trong cụm di tích thờ An Dương Vương.
Đình trông về hướng Nam, trước có tam quan, nay đã bị phá. Như trên đã trình
bày, đình được xây cất trên đất mà tương truyền là nơi vua ngự triều. Tiếp theo
là một lớp cửa xây kiểu tam quan, có cửa kín ở giữa và hai cửa nhỏ hai bên. Cửa
giữa xây hai trụ gạch kiểu lồng đèn cao; cửa hai bên kiểu tò vò mái giả. Sau lần
cửa là sân gạch rộng.
Một công trình quan trọng khác trong thành nội là đình Cổ Loa, tương
truyền được dựng ở nơi vua thượng triều tại kinh đô Cổ Loa nên còn có
tên gọi là đình Ngự Triều Di Quy. Đình có lịch sử lâu đời, được xây dựng
lại vào năm 1907.
Đình có bố cục mặt bằng nền hình chữ “Đinh”, gồm đại đình và hậu cung,
nằm trong một khuôn viên rộng rãi. Đại đình gồm gian, hai chái, kết cấu
khung gỗ, mái lợp ngói mũi hài, với bốn góc đao cong vút.
Tòa đình được chống đỡ bằng 6 hàng chân cột, các bộ vì nóc được kết cấu theo kiểu “giá chiêng, chồng rường” với quy mô bề thế.
Hậu cung của đình Cổ Loa có ban thờ vua An Dương Vương và tướng Cao Lỗ.
Sau đình Cổ Loa có chùa Bảo Sơn, còn gọi là chùa Cổ Loa, một ngôi chùa
có lịch sử nhiều thế kỷ. Các công trình chính của chùa gồm chính điện,
hậu cung, hành lang và nhà Mẫu.
Chùa còn giữ được nhiều cổ vật giá trị như những bức cốn tứ linh thế kỷ
19, 134 pho tượng, 5 tấm bia đá từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19, hai đại hồng
chung đúc vào năm 1803, một khánh đồng và nhiều pháp khí có giá trị
khác.
Bên trái đình Cổ Loa là am Mỵ Châu, nơi thờ nàng Mỵ Châu, vị công chúa
bị vua An Dương Vương chém đầu vì tội phản bội trong truyền thuyết xa
xưa. Am có mặt bằng kiến trúc được bố cục theo dạng “tiền Nhất, hậu
Đinh”, gồm các tòa tiền tế, trung đường và hậu cung.
Phía trước của Đền thờ vua An Dương Vương
Quanh những di tích này, xưa kia dân làng mở hội để tưởng nhớ
An Dương Vương và những sự tích xung quanh ông. Khu di tích lịch sử này nổi tiếng
từ lâu đời, thu hút lớp lớp người nhiều thế hệ đến đây, như ca dao xưa truyền lại:
Ai về qua huyện Đông Anh
Ghé thăm phong cảnh Loa thành Thục Vương
Cổ Loa thành cũ khác thường
Trải bao năm tháng dấu thành còn ghi.
Từ lâu trong dân gian đã lưu truyền câu: “chết thì bỏ con bỏ cháu, sống thì
không bỏ mồng 6 tháng Giêng” để nói lên sự hấp dẫn của lễ hội Cổ Loa. Xưa, hội
bắt đầu từ ngày mồng 6 đến hết ngày 18 tháng Giêng. Tương truyền ngày mồng 6
tháng Giêng là ngày Thục Phán nhập cung và ngày mồng 9 tháng Giêng là
ngày ông lên ngôi, khao toàn bộ binh sĩ. Cho nên để nhớ ngày long trọng ấy
dân Cổ Loa cùng tám xã hộ nhi rước kiệu mở hội đông vui cả một vùng.
Cũng từ lâu các triều đại phong kiến hết sức chú ý giúp dân
địa phương chăm lo hương khói tại đền. Chỉ dụ lâu đời nhất đề niên hiệu Lê Thần
Đức (1614) còn ghi: cấp cho xã Cổ Loa năm mươi mẫu ruộng tế điền miễn thuế để
trông coi đền miếu. Các đời vua Vĩnh Tộ (1620), Phúc Thái (1649), Cảnh Trị
(1673), Vĩnh Thịnh (1708), Long Đức (1735), Vĩnh Hựu (1793) đều có chỉ dụ nhắc
lại.
Lễ vật dùng cho tế lễ ngoài sự đóng góp của các giáp còn có
hoa lợi của số ruộng đã kể trên. Trong đó có hai mươi mốt mẫu dùng cho làm cỗ bỏng,
hai mươi nhăm mẫu dành cho lễ. Ngoài ra là để hương khói ngày thánh sinh, thánh
hóa.
Cổ Loa còn kết chạ với tám xã khác ở xung quanh vùng thờ An
Dương Vương từ ngày mồng 6 tháng Giêng. Do vậy hội đền An Dương Vương là một hội
lớn trong vùng với sự tham gia không chỉ riêng dân xã Cổ Loa mà của các làng kết
nghĩa nữa.
Toàn cảnh lễ hội Cổ Loa - Nghi thức tế lễ - Ảnh: Sưu tầm
Ngày mồng 6 tháng Giêng là ngày chính hội nhưng dân
làng đã tiến hành lễ nhập tịch từ ngày 14 tháng Chạp. Năm phong đăng hòa cốc
thì lễ nhập tịch được tiến hành rất long trọng. Khắp nơi trong làng đường sá được
sửa sang, quét dọn sạch sẽ. Các di tích được quét dọn, lau chùi tu bổ, đồ tế
khí, cờ quạt được trưng bày… để chuẩn bị.
Ngày 18 tháng Chạp là ngày lễ gia quan. Áo mũ của thần được
đem ra đặt lên kiệu rước về đền nơi thần ngự. Những người khiêng kiệu hôm đó phải
chay tịnh từ trước. Các người hành lễ cũng phải giữ thanh khiết, bịt miệng bằng
vải đỏ trong lúc phong bao áo mũ cho thần. Sau đó được tiến hành một tuần tế - tế
gia quan.
Trước hội phe tư văn trong làng đã lựa chọn người văn
hay chữ tốt viết chúc văn tế thần. Người đó còn phải là người đỗ đạt cao, có
tài văn chương được mọi người tín nhiệm. Phe tư văn có văn chỉ và có ruộng tư
văn ba mẫu để chi vào việc hội họp và nghi lễ trong năm.
Từ sớm ngày mồng 6, một đoàn người mang lễ phục cầm cờ quạt,
tàn, lọng đình, dẫn đầu là chủ lễ mặc áo thụng xanh, đội mũ tế đến nhà ông diễn
văn rước bản văn ra đền. Đám rước rất nghiêm trang và lộng lẫy. Một hồi tù và
rúc lên, báo hiệu đám rước văn đã tới. Ông cai đám ở đền Thượng ra nghênh tiếp
bản văn và rước vào, trịnh trọng đặt lên hương án. Đoàn người lần lượt lễ thần
rồi lui ra.