Đền thờ phụng Hoàng đế Lê Đại Hành trong cố đô Hoa Lư Đền thờ phụng Hoàng đế Lê Đại Hành trong cố đô Hoa Lư Đền Vua Lê Đại Hành là một di tích lịch sử văn hóa thuộc khu di tích quốc gia đặc biệt cố đô Hoa Lư tỉnh Ninh Bình. Đền thờ Vua Lê Đại Hành, thái hậu Dương Vân Nga, Lê Long Đĩnh, ngoài ra còn có bài vị thờ công chúa Lê Thị Phất Ngân và tướng Phạm Cự Lượng. Đền nằm cách đền vua Đinh Tiên Hoàng 300 mét, thuộc thành Đông kinh đô Hoa Lư xưa, nay là làng cổ Yên Thành, xã Trường Yên, Ninh Bình. Đền vua Lê quy mô nhỏ hơn đền vua Đinh nên không gian trong đền khá gần gũi và huyền ảo. Kiến trúc Đền được xây theo kiểu nội công ngoại quốc nhưng có quy mô nhỏ hơn đền Vua Đinh. Trước mặt đền là khu quảng trường trung tâm cố đô Hoa Lư và núi Ðèn nằm bên sông Sào Khê, sau đền là hào nước bảo vệ cố đô chạy dưới chân núi Ðìa. Qua Nghi môn ngoại (cửa ngoài) theo đường chính đạo lát gạch, phía bên trái là một hòn non bộ lớn, cao 3m tượng hình chim phượng múa, mỏ quay vào đền, hai cánh như đang bay. Bên tay phải là nhà Tiền bái, ở mặt tiền có hòn non bộ "Hổ phục" gồm gốc cây duối thân to có 9 núi, tuổi thọ trên 300 năm. Bên trái nhà Tiền bái có hòn non bộ có dáng "voi quỳ" được khắc hai chữ Hán "Bất di". Theo đường chính đạo bên phải còn có hồ nước rộng. Qua Nghi môn nội (cửa trong) cũng 3 gian, theo chính đạo kiến trúc đăng đối là hai vườn hoa, tiếp đó là hai dãy nhà vọng. Ở giữa vườn hoa bên phải có hai non bộ "Phượng ấp", bên trái là hòn non bộ "Long Mã". Ở sân rồng gần gian giữa của Bái đường có long sàng bằng đá. Ðền có ba toà: toà ngoài là Bái đường, toà giữa là Thiêu hương thờ Phạm Cự Lượng, người có công với vua Lê Ðại Hành. Gian giữa chính cung thờ Lê Hoàn ngồi hướng về phía trước, bên phải là Lê Long Đĩnh quay về hướng bắc, bên trái là hoàng hậu Dương Vân Nga quay hướng nam về phía đền vua Đinh. Theo lý giải của dân gian thì mặc dù bà đã xuất giá làm vợ vua Lê Đại Hành nhưng vẫn hướng về người chồng cũ là Vua Đinh Tiên Hoàng. Gian bên trái chính cung thờ công chúa Lê Thị Phất Ngân, con gái Vua Lê và Dương Vân Nga đồng thời là vợ của Lý Thái Tổ sau này. Hoàng hậu Lê Thị Phất Ngân là người sinh ra vua Lý Thái Tông vào năm 1000. Sau khi nhà Lý dời đô về Thăng Long, Bà thường về chùa Duyên Ninh để trông coi lăng mộ vua cha và tác hợp cho nhiều đôi trai gái thành duyên. Nét độc đáo ở đền thờ vua Lê Đại Hành là nghệ thuật chạm gỗ thế kỷ 17 đã đạt đến trình độ điêu luyện, tinh xảo. Tương truyền, bà mẹ mơ thấy hoa sen mà sinh ra Lê Hoàn, trong lúc đi cấy ở cạnh ao sen. Bà đã ủ Lê Hoàn trong khóm trúc và được con hổ chúa rừng xanh ấp ủ. Sau lời cầu xin của bà mẹ con hổ bỏ đi. Sau này lớn lên Lê Hoàn đã lập ra nghiệp lớn: "Phá Tống, bình Chiêm" lừng lẫy. Vì vậy mà nghệ thuật điêu khắc gỗ dân gian Việt Nam của các nghệ nhân ở đây cũng thống nhất với truyền thuyết về các đề tài ca ngợi Lê Hoàn. Nghệ thuật tạc tượng Đền Vua Lê Đại Hành dựng trên nền cũ của cung điện thuộc cố đô Hoa Lư, kiến trúc cơ bản thuộc phong cách cuối thế kỷ XVII, đến thời Nguyễn có sự tu sửa lớn - nhất là xây dựng thêm nửa phía ngoài. Trong cung cấm của đền có ba pho tượng: Hoàng đế Lê Đại Hành ở gian giữa ngồi ngai, hoàng hậu Dương Vân Nga ở gian bên trái và vua Lê Long Đĩnh ở gian bên phải. Theo lý giải của người xưa, Dương Vân Nga là cánh tay phải của vua, là người góp công đưa ông lên ngôi hoàng đế song vì lòng vẫn hướng về đền thờ người chồng cũ Đinh Tiên Hoàng nên người xưa bố trí tượng bà ngồi ở hông bên trái. Hai pho tượng ở hai gian bên xoay ngang để cùng nhìn vào gian giữa, tạo sự tập trung tăng vẻ tôn nghiêm cho ban thờ vua Lê Đại Hành. Mới quan sát, cả ba pho tượng này đều có dáng dấp thời Nguyễn vì nước sơn mới và những hoa văn trang trí rồng - mây - hoa - lá vừa quen thuộc ở thời Nguyễn vừa làm theo kỹ thuật uốn dán vào. Để ý kỹ hơn lại thấy có một số nét của cuối thế kỷ XVII sang thế kỷ XVIII hoa cúc trên mũ bà Dương Vân Nga rực rỡ mà gọn đẹp, hài của các tượng đều chạm mảng lớn với đầu rồng đơn giản. Tuy nhiên trên tổng quan cả ba tượng này có nhiều nét riêng tiếp nhận từ tượng thời Mạc để rồi phát triển vào những năm đầu thế kỷ XVII. Như vậy ở ba pho tượng này có ba lớp văn hóa chồng nhau, do các thời sau tu sửa đã đắp thêm vào, chồng phủ ra ngoài. Dáng chung của cả ba pho tượng này là thế ngồi hơi dướn lên, cẳng chân trên đến đùi quá ngắn như thể từ một khối gỗ liền bị hạn chế chiều dày, gợi lại những tượng đá và nhất là phù điêu đá nổi cao ở thời Mạc, do đó người ngồi ngai hay bục cứ như bị toài xuống. Hai cánh tay dưới cũng bị thu ngắn để bàn tay úp đúng trên đùi. Tượng Hoàng đế Lê Đại Hành đội mũ bình thiên tuy thời sau thêm nhiều, song phía trước mũ còn chạm nổi chữ Vương to theo như mũ tượng các đức vua Mạc thế kỷ trước. Tóc của tượng thờ vua Lê Đại Hành và Lê Long Đĩnh không làm thành mảng tam giác chảy xuống bệ như các tượng thời Nguyễn, mà đều cắt ngắn đến gáy, còn tóc bà Dương Vân Nga được tết một dải chảy sau tai xuống vai rồi chia ra túm về bả vai đằng trước túm ra sau lưng, giống như các tượng Quan Âm thời Mạc và chuẩn bị cho tượng giữa thế kỷ XVII. Điều đặc biệt lý thú là ở tượng Lê Ngọa Triều có bối tử ở sau lưng không bị sơn phủ lớp trang trí mới nên trong đồ án ô vuông còn rất rõ con rồng chạm đơn giản, rất giống với hình rồng trên hai tấm bia Hoằng Định nói trên, các tượng này đều ở thế ngồi tự tin, nghiêm chỉnh mà thoải mái, dáng toàn thân cân đối là sự chuẩn bị cho tượng khoảng giữa thế kỷ XVII. Khuôn mặt hoàng đế Lê Đại Hành phương phi, đầy đặn, sáng láng. Khuôn mặt Hoàng hậu Dương Vân Nga trông rất hiền thục và mang nét chân dung riêng, khuôn trăng đầy đặn, phúc hậu. Đây là những tượng đẹp mở đầu cho loạt tượng chân dung thời Lê trung hưng. Lễ hội Đền vua Đinh, Đền vua Lê (Lễ hội Trường Yên) được tổ chức hằng năm tại Cố đô Hoa Lư (thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình), nơi tọa lạc của hai ngôi đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành, cùng các nhân vật lịch sử có liên quan đến hai triều đại Đinh - Tiền Lê. Lễ hội diễn ra từ ngày 8 - 10 tháng 3 (Âm lịch), gồm những nghi thức chính sau: - Lễ mở cửa đền: được tiến hành trước khi diễn ra lễ hội một ngày (ngày 7 tháng 3) để cúng tế thần linh và hai vua, xin được tổ chức lễ hội. Những người thực hiện công việc này là các bậc cao niên có uy tín của làng, am hiểu về truyền thống. - Lễ rước nước: là nghi thức mở đầu cho ngày khai hội (ngày 8 tháng 3). Đây là hoạt động được đông đảo quần chúng và nhân dân địa phương tham gia. Đoàn rước nước khởi hành từ đền vua Đinh, tới bến sông Hoàng Long, rồi xuống thuyền ra đến cây Nêu - Vị trí lấy nước cho vào chóe. Khi đoàn rước về tới đền, một phần nước được đưa vào nội cung để làm lễ mộc dục, phần còn lại được dâng lên ban thờ vua và để đến lễ hội năm sau. - Lễ mộc dục: tức lễ tắm thần vị, bao sái tượng vua Đinh, vua Lê. Trước khi tiến hành công việc này, dân làng Trường Yên dâng lễ cáo yết thần linh, xin phép được thực hiện. Khăn dùng để bao sái tượng thường có màu đỏ; sau khi bao sái bằng nước trắng (rước từ sông Hoàng Long) sẽ bao sái bằng nước thơm. - Lễ dâng hương: diễn ra ngay sau khi hoàn thành lễ mộc dục, tại đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng và đền thờ vua Lê Đại Hành. Đoàn tế dâng hương có chủ tế, bồi tế, chấp sự và tiến hành theo trình tự: dâng hương, cúc cung bái, dâng rượu tuần, đọc lời chúc. - Lễ tế: cũng được tiến hành tại đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành. Để chuẩn bị cho lễ tế, nhân dân Trường Yên cử người có học thức cao của làng, am hiểu lịch sử soạn bài văn tế có nội dung gắn với tiểu sử, công trạng của các vị vua lúc sinh thời. Khi đọc xong, bài tế được hóa ngay trong buổi lễ. Tương truyền, đền thờ vua Lê được dựng trên nền cũ của cung điện hoàng gia thuộc Cố đô Hoa Lư. Để xác nhận điều này, vào năm 1998, các nhà khảo cổ đã tiến hành khai quật một khu vực rộng 200 mét vuông ở phía Nam khuôn viên đền. Kết quả của cuộc khai quật đã không làm các nhà khảo cổ học thất vọng. Dưới độ sâu 0,95 mét, những vết tích nền móng của một cung điện đồ sộ với niên đại vào khoảng thế kỷ thứ 10 đã lộ ra. Từ vị trí của nền móng nằm gần khu vực đền thờ vua Đinh, vua Lê, các chuyên gia đã xác định đây chính là cung điện trung tâm của cố đô Hoa Lư, cơ quan chính trị trung ương của đất nước Đại Việt khi mới hình thành. Những di tích này được phát hiện mở ra các phần diện mạo của kinh đô Hoa Lư xưa, với thành quách cố định, nhiều kiến trúc lớn và trang trí cầu kỳ mang đậm phong cách nghệ thuật thời Đinh - Lê ... Nhiều thông tin quý giá về kỹ thuật kiến trúc của người Việt cách đây 1.000 năm đã được hé mở, như cách nung gạch, cách thức đóng cọc làm móng… Hàng trăm hiện vật cổ đã được tìm thấy tại đây, tiêu biểu là những viên gạch lát nền được trang trí rất tinh xảo, tượng chim uyên ương tạo tác sống động, bia đá còn nguyên nét chữ khắc.... Các di vật này vẫn mang đậm màu sắc văn hóa đặc trưng của dân tộc, là những tiền đề cơ bản để văn hóa Việt Nam phát triển rực rỡ trong thời kỳ tiếp theo. Tựu chung lại, cuộc khai quật khảo cổ học ở khu vực đền thờ vua Lê Đại Hành đã đem lại nhiều tư liệu vô giá phục vụ cho việc nghiên cứu về kinh đô Hoa Lư thời Đinh - Tiền Lê... Nguồn: InterNet Ths Nguyễn Thy Ngà Đền Vua Lê Đại Hành là một di tích lịch sử văn hóa thuộc khu di tích quốc gia đặc biệt cố đô Hoa Lư tỉnh Ninh Bình. Đền thờ Vua Lê Đại Hành, thái hậu Dương Vân Nga, Lê Long Đĩnh, ngoài ra còn có bài vị thờ công chúa Lê Thị Phất Ngân và tướng Phạm Cự Lượng. Đền nằm cách đền vua Đinh Tiên Hoàng 300 mét, thuộc thành Đông kinh đô Hoa Lư xưa, nay là làng cổ Yên Thành, xã Trường Yên, Ninh Bình. Đền vua Lê quy mô nhỏ hơn đền vua Đinh nên không gian trong đền khá gần gũi và huyền ảo. Kiến trúc Đền được xây theo kiểu nội công ngoại quốc nhưng có quy mô nhỏ hơn đền Vua Đinh. Trước mặt đền là khu quảng trường trung tâm cố đô Hoa Lư và núi Ðèn nằm bên sông Sào Khê, sau đền là hào nước bảo vệ cố đô chạy dưới chân núi Ðìa. Qua Nghi môn ngoại (cửa ngoài) theo đường chính đạo lát gạch, phía bên trái là một hòn non bộ lớn, cao 3m tượng hình chim phượng múa, mỏ quay vào đền, hai cánh như đang bay. Bên tay phải là nhà Tiền bái, ở mặt tiền có hòn non bộ "Hổ phục" gồm gốc cây duối thân to có 9 núi, tuổi thọ trên 300 năm. Bên trái nhà Tiền bái có hòn non bộ có dáng "voi quỳ" được khắc hai chữ Hán "Bất di". Theo đường chính đạo bên phải còn có hồ nước rộng. Qua Nghi môn nội (cửa trong) cũng 3 gian, theo chính đạo kiến trúc đăng đối là hai vườn hoa, tiếp đó là hai dãy nhà vọng. Ở giữa vườn hoa bên phải có hai non bộ "Phượng ấp", bên trái là hòn non bộ "Long Mã". Ở sân rồng gần gian giữa của Bái đường có long sàng bằng đá. Ðền có ba toà: toà ngoài là Bái đường, toà giữa là Thiêu hương thờ Phạm Cự Lượng, người có công với vua Lê Ðại Hành. Gian giữa chính cung thờ Lê Hoàn ngồi hướng về phía trước, bên phải là Lê Long Đĩnh quay về hướng bắc, bên trái là hoàng hậu Dương Vân Nga quay hướng nam về phía đền vua Đinh. Theo lý giải của dân gian thì mặc dù bà đã xuất giá làm vợ vua Lê Đại Hành nhưng vẫn hướng về người chồng cũ là Vua Đinh Tiên Hoàng. Gian bên trái chính cung thờ công chúa Lê Thị Phất Ngân, con gái Vua Lê và Dương Vân Nga đồng thời là vợ của Lý Thái Tổ sau này. Hoàng hậu Lê Thị Phất Ngân là người sinh ra vua Lý Thái Tông vào năm 1000. Sau khi nhà Lý dời đô về Thăng Long, Bà thường về chùa Duyên Ninh để trông coi lăng mộ vua cha và tác hợp cho nhiều đôi trai gái thành duyên. Nét độc đáo ở đền thờ vua Lê Đại Hành là nghệ thuật chạm gỗ thế kỷ 17 đã đạt đến trình độ điêu luyện, tinh xảo. Tương truyền, bà mẹ mơ thấy hoa sen mà sinh ra Lê Hoàn, trong lúc đi cấy ở cạnh ao sen. Bà đã ủ Lê Hoàn trong khóm trúc và được con hổ chúa rừng xanh ấp ủ. Sau lời cầu xin của bà mẹ con hổ bỏ đi. Sau này lớn lên Lê Hoàn đã lập ra nghiệp lớn: "Phá Tống, bình Chiêm" lừng lẫy. Vì vậy mà nghệ thuật điêu khắc gỗ dân gian Việt Nam của các nghệ nhân ở đây cũng thống nhất với truyền thuyết về các đề tài ca ngợi Lê Hoàn. Nghệ thuật tạc tượng Đền Vua Lê Đại Hành dựng trên nền cũ của cung điện thuộc cố đô Hoa Lư, kiến trúc cơ bản thuộc phong cách cuối thế kỷ XVII, đến thời Nguyễn có sự tu sửa lớn - nhất là xây dựng thêm nửa phía ngoài. Trong cung cấm của đền có ba pho tượng: Hoàng đế Lê Đại Hành ở gian giữa ngồi ngai, hoàng hậu Dương Vân Nga ở gian bên trái và vua Lê Long Đĩnh ở gian bên phải. Theo lý giải của người xưa, Dương Vân Nga là cánh tay phải của vua, là người góp công đưa ông lên ngôi hoàng đế song vì lòng vẫn hướng về đền thờ người chồng cũ Đinh Tiên Hoàng nên người xưa bố trí tượng bà ngồi ở hông bên trái. Hai pho tượng ở hai gian bên xoay ngang để cùng nhìn vào gian giữa, tạo sự tập trung tăng vẻ tôn nghiêm cho ban thờ vua Lê Đại Hành. Mới quan sát, cả ba pho tượng này đều có dáng dấp thời Nguyễn vì nước sơn mới và những hoa văn trang trí rồng - mây - hoa - lá vừa quen thuộc ở thời Nguyễn vừa làm theo kỹ thuật uốn dán vào. Để ý kỹ hơn lại thấy có một số nét của cuối thế kỷ XVII sang thế kỷ XVIII hoa cúc trên mũ bà Dương Vân Nga rực rỡ mà gọn đẹp, hài của các tượng đều chạm mảng lớn với đầu rồng đơn giản. Tuy nhiên trên tổng quan cả ba tượng này có nhiều nét riêng tiếp nhận từ tượng thời Mạc để rồi phát triển vào những năm đầu thế kỷ XVII. Như vậy ở ba pho tượng này có ba lớp văn hóa chồng nhau, do các thời sau tu sửa đã đắp thêm vào, chồng phủ ra ngoài. Dáng chung của cả ba pho tượng này là thế ngồi hơi dướn lên, cẳng chân trên đến đùi quá ngắn như thể từ một khối gỗ liền bị hạn chế chiều dày, gợi lại những tượng đá và nhất là phù điêu đá nổi cao ở thời Mạc, do đó người ngồi ngai hay bục cứ như bị toài xuống. Hai cánh tay dưới cũng bị thu ngắn để bàn tay úp đúng trên đùi. Tượng Hoàng đế Lê Đại Hành đội mũ bình thiên tuy thời sau thêm nhiều, song phía trước mũ còn chạm nổi chữ Vương to theo như mũ tượng các đức vua Mạc thế kỷ trước. Tóc của tượng thờ vua Lê Đại Hành và Lê Long Đĩnh không làm thành mảng tam giác chảy xuống bệ như các tượng thời Nguyễn, mà đều cắt ngắn đến gáy, còn tóc bà Dương Vân Nga được tết một dải chảy sau tai xuống vai rồi chia ra túm về bả vai đằng trước túm ra sau lưng, giống như các tượng Quan Âm thời Mạc và chuẩn bị cho tượng giữa thế kỷ XVII. Điều đặc biệt lý thú là ở tượng Lê Ngọa Triều có bối tử ở sau lưng không bị sơn phủ lớp trang trí mới nên trong đồ án ô vuông còn rất rõ con rồng chạm đơn giản, rất giống với hình rồng trên hai tấm bia Hoằng Định nói trên, các tượng này đều ở thế ngồi tự tin, nghiêm chỉnh mà thoải mái, dáng toàn thân cân đối là sự chuẩn bị cho tượng khoảng giữa thế kỷ XVII. Khuôn mặt hoàng đế Lê Đại Hành phương phi, đầy đặn, sáng láng. Khuôn mặt Hoàng hậu Dương Vân Nga trông rất hiền thục và mang nét chân dung riêng, khuôn trăng đầy đặn, phúc hậu. Đây là những tượng đẹp mở đầu cho loạt tượng chân dung thời Lê trung hưng. Lễ hội Đền vua Đinh, Đền vua Lê (Lễ hội Trường Yên) được tổ chức hằng năm tại Cố đô Hoa Lư (thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình), nơi tọa lạc của hai ngôi đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành, cùng các nhân vật lịch sử có liên quan đến hai triều đại Đinh - Tiền Lê.Lễ hội diễn ra từ ngày 8 - 10 tháng 3 (Âm lịch), gồm những nghi thức chính sau:- Lễ mở cửa đền: được tiến hành trước khi diễn ra lễ hội một ngày (ngày 7 tháng 3) để cúng tế thần linh và hai vua, xin được tổ chức lễ hội. Những người thực hiện công việc này là các bậc cao niên có uy tín của làng, am hiểu về truyền thống.- Lễ rước nước: là nghi thức mở đầu cho ngày khai hội (ngày 8 tháng 3). Đây là hoạt động được đông đảo quần chúng và nhân dân địa phương tham gia. Đoàn rước nước khởi hành từ đền vua Đinh, tới bến sông Hoàng Long, rồi xuống thuyền ra đến cây Nêu - Vị trí lấy nước cho vào chóe. Khi đoàn rước về tới đền, một phần nước được đưa vào nội cung để làm lễ mộc dục, phần còn lại được dâng lên ban thờ vua và để đến lễ hội năm sau.- Lễ mộc dục: tức lễ tắm thần vị, bao sái tượng vua Đinh, vua Lê. Trước khi tiến hành công việc này, dân làng Trường Yên dâng lễ cáo yết thần linh, xin phép được thực hiện. Khăn dùng để bao sái tượng thường có màu đỏ; sau khi bao sái bằng nước trắng (rước từ sông Hoàng Long) sẽ bao sái bằng nước thơm.- Lễ dâng hương: diễn ra ngay sau khi hoàn thành lễ mộc dục, tại đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng và đền thờ vua Lê Đại Hành. Đoàn tế dâng hương có chủ tế, bồi tế, chấp sự và tiến hành theo trình tự: dâng hương, cúc cung bái, dâng rượu tuần, đọc lời chúc.- Lễ tế: cũng được tiến hành tại đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành. Để chuẩn bị cho lễ tế, nhân dân Trường Yên cử người có học thức cao của làng, am hiểu lịch sử soạn bài văn tế có nội dung gắn với tiểu sử, công trạng của các vị vua lúc sinh thời. Khi đọc xong, bài tế được hóa ngay trong buổi lễ. Tương truyền, đền thờ vua Lê được dựng trên nền cũ của cung điện hoàng gia thuộc Cố đô Hoa Lư. Để xác nhận điều này, vào năm 1998, các nhà khảo cổ đã tiến hành khai quật một khu vực rộng 200 mét vuông ở phía Nam khuôn viên đền. Kết quả của cuộc khai quật đã không làm các nhà khảo cổ học thất vọng. Dưới độ sâu 0,95 mét, những vết tích nền móng của một cung điện đồ sộ với niên đại vào khoảng thế kỷ thứ 10 đã lộ ra. Từ vị trí của nền móng nằm gần khu vực đền thờ vua Đinh, vua Lê, các chuyên gia đã xác định đây chính là cung điện trung tâm của cố đô Hoa Lư, cơ quan chính trị trung ương của đất nước Đại Việt khi mới hình thành. Những di tích này được phát hiện mở ra các phần diện mạo của kinh đô Hoa Lư xưa, với thành quách cố định, nhiều kiến trúc lớn và trang trí cầu kỳ mang đậm phong cách nghệ thuật thời Đinh - Lê ... Nhiều thông tin quý giá về kỹ thuật kiến trúc của người Việt cách đây 1.000 năm đã được hé mở, như cách nung gạch, cách thức đóng cọc làm móng… Hàng trăm hiện vật cổ đã được tìm thấy tại đây, tiêu biểu là những viên gạch lát nền được trang trí rất tinh xảo, tượng chim uyên ương tạo tác sống động, bia đá còn nguyên nét chữ khắc.... Các di vật này vẫn mang đậm màu sắc văn hóa đặc trưng của dân tộc, là những tiền đề cơ bản để văn hóa Việt Nam phát triển rực rỡ trong thời kỳ tiếp theo. Tựu chung lại, cuộc khai quật khảo cổ học ở khu vực đền thờ vua Lê Đại Hành đã đem lại nhiều tư liệu vô giá phục vụ cho việc nghiên cứu về kinh đô Hoa Lư thời Đinh - Tiền Lê... Nguồn: InterNetThs Nguyễn Thy Ngà Trở về đầu trang Đền thờ vua Lê Đại Hành cố đô Hoa Lư Thái hậu Dương Vân Nga Công chúa Phất Ngân Trường Yên Ninh Bình 0 Tổng số: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10