Xã Thụy Vân, thành phố Việt Trì là nơi có bề dày lịch sử với nhiều đền, chùa, tiêu biểu là đền Thượng – di tích từ thời Hùng Vương. Đền Thượng được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ thứ 19, trên đồi Bọ Nghè, thuộc làng Cẩm Đội. Đền thờ 3 vị tướng là Quý Minh, Bạch Thạch thời Hùng Vương thứ 18 và Đông Hải Đại Vương thời nhà Lý.
Truyền thuyết kể rằng, ngài Quý Minh và ngài Cao Sơn là hai
anh em sinh đôi có diện mạo và sức vóc khác thường, khôi ngô tuấn tú lại văn võ
song toàn. Năm hai ông 18 tuổi thì cha mẹ mất, sau 3 năm mãn tang hai ông về đất
Sơn Tây ở, Tản Viên Sơn Thánh nghe tin liền cho mời Quý Minh đến rồi kết bạn.
Thời Vua Hùng thứ 18, quân Thục Phán nổi lên, nhà vua cử Tản
Viên Sơn thống lĩnh quân sỹ để chống giặc. Ngày nhận lệnh, Tản Viên Sơn tiến cử
Cao Sơn và Quý Minh cùng ra trận để bảo vệ bờ cõi. Quý Minh được phong chức hữu
tướng quân, cầm quân về làng Cẩm Đội.
Các tướng sĩ thưa với ngài rằng ở Cẩm Đội có ngôi đền rất
thiêng, trước khi ngài cất quân hãy đến cầu mộng tại đền xem lành dữ ra sao.
Nghe lời tướng sĩ, đêm hôm đó ngài đến cầu mộng tại đền, ngài thấy một tiên nữ
mặc áo trắng hiện lên bảo rằng : “Ngài cứ hành quân về phía Tây Nam, sang mạn
sông Đà gặp giặc sẽ có người giúp”.
Do quân của ngài ít nên đã bị bao vây, lúc đó chợt nghĩ đến
mộng đêm qua, ngài ngẩng mặt lên trời thấy một tiên nữ đứng trên đám mây chỉ bảo,
ngài liền cho quân đánh mở đường rồi phản công liên hồi khiến quân địch đại bại.
Về sau, để ghi nhớ công ơn của ngài, dân làng lấy ngày mồng
3 tháng giêng âm lịch – ngày ngài mất làm ngày thánh hóa và lập đền thờ phụng.
Đền Thượng vẫn còn lưu giữ được những nét cổ kính, nguyên sơ.
Thời gian đức Quý Minh ở Cẩm Đội, người bạn của ngài là Đức
Bạch Thạch và Tản Viên Sơn Thánh qua chơi, ngài làm gỏi cá thiết đãi 2 người bạn
vào ngày mùng 1 tháng 4 âm lịch.
Về sau để tưởng nhớ các ngài, dân làng Cẩm Đội làm lễ cầu
mát thường cúng mâm cá gỏi gọi là “Gỏi trảng sàng”. Ngày hôm đó cắm lá cờ đầu
gò Chảy, chỉ khi nào thấy cờ bay chỉ về phía đình mới cúng gọi là “Cầu hèm”. Chỗ
cắm cờ hiện nay gọi là cầu Bái Sứ.
Đến thời nhà Lý, khi Trần Thủ Độ chuyên quyền âm mưu cướp
ngôi, lúc đó ở Hồng Châu, Hải Hưng có vị tên là Đông Hải không theo hàng, ông
cùng một số tướng sĩ chỉ huy cầm quân chiến đấu.
Từ Kinh đô Thăng Long, ông tiến về Đất Tổ Hùng Vương và đóng
quân tại Cẩm Đội. Nghe chuyện làng có đền thiêng, ông cũng làm lễ cầu mộng và
được Tiên nữ hiện lên bảo rằng: “Mai sẽ hành quân về xuôi, ta sẽ phù hộ và bảo
toàn lực lượng cho”.
Đúng lời, ông cho quân về xuôi đánh với quân của Trần Thủ Độ
và cầm cự hàng chục năm trời. Mặc dù đến khi triều đại suy tàn, ông không thể cứu
vãn được, song với lòng trung dũng vô biên, sau khi ông qua đời dân làng đã lập
bài vị cùng tạc tượng ông và Quý Minh để phụng thờ.
Cổng vào mới được hoàn thiện từ năm 2016 tạo thành một khuôn
viên khép kín.
Những năm trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, hàng năm, nhân
dân thường tổ chức tiệc làng ở đền Thượng vào ngày 3 tháng giêng, là ngày cầu
đinh có rước kiệu làng và ngày 3 tháng 3 âm lịch là tiệc gà lượt. Người dân ở
khắp nơi đều đổ về để tỏ lòng kính mến với các bậc tiền nhân đã có công bảo vệ
đất nước.
Đền Thượng được xây dựng theo hướng Tây Nam, theo kiến trúc
kiểu chữ nhất (-) gồm 5 gian thờ dọc, có kết cấu 4 hàng chân cột gỗ với tổng số
là 24 cột. Nền lát gạch bát, mái lợp ngói sông Cầu. Bộ vì kết cấu theo kiểu “chồng
rường, kẻ chuyền, hạ bẩy”. Bộ vì trước cửa hậu cung được làm theo kiểu cốn mê đục
chạm hình lưỡng long chầu nguyệt và mặt hổ phù. Dưới câu đầu treo bức đại tự “Tối
linh từ”. Toàn bộ các chi tiết kiến trúc ở trước cửa hậu cung đều được sơn son
làm nổi bật vẻ uy nghi của ngôi đền.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, ngôi đền cũng đã bị xuống
cấp và được người dân trùng tu và sửa chữa nhiều lần. Trong đền vẫn còn lưu giữ
được 5 đạo sắc phong thời Nguyễn. Năm 1964, đền Thượng được công nhận là di
tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh.
Ngày nay, cùng với việc lưu giữ, bảo tồn các hiện vật trong
ngôi đền, chính quyền địa phương đã tích cực huy động nguồn vốn xã hội hóa để
tiếp tục tu bổ và tôn tạo đền Thượng, phát huy ý nghĩa tinh thần to lớn không
chỉ với người dân làng Cẩm Đội nói riêng, mà của của xã Thụy Vân nói chung, thể
hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc.
Thanh Trà
Nguồn: Báo Phú Thọ