Đền Thượng “Thượng Đẳng linh từ” thuộc xã Đan Thượng (Hạ Hòa- Phú Thọ) thờ phụng Đức ngài Cao Sơn Đại Vương và bản cảnh thành hoàng làng.
Tọa lạc trên đồi Nghè, cổ kính và uy nghi giữa một vùng tre
trúc xanh tốt, đền Thượng là di tích lịch sử văn hóa gắn với tín ngưỡng thờ
cúng Hùng Vương trên vùng đất Tổ Phú Thọ.
Đền Thượng tọa lạc trên đồi Nghè thuộc xã Đan Thượng (Hạ
Hòa- Phú Thọ). Đến nay, khi nói về niên đại của đền Thượng, không có ai còn nhớ
lịch sử ra đời và cũng không có tài liệu ghi chép về thời điểm dựng đền. Vì vậy,
người dân quanh vùng Đan Thượng, Đan Hà chỉ nhớ thời điểm phục dựng ngôi đền.
Vì thế, ước chừng đền Thượng có niên đại vài trăm năm. Tên của
đền Thượng được khắc bằng bốn chữ Nho ở chính giữa cửa đền là “Thượng Đẳng linh
từ”. Dấu thời gian và rêu phủ làm mờ dòng chữ nhưng trong tâm thức của cư dân
nơi đây, đền Thượng thờ ngài Cao Sơn Đại Vương và bản cảnh thành hoàng làng.
Theo truyền thuyết Hùng Vương, Cao Sơn và em ruột ông là Quý
Minh, là nhân vật huyền thoại đời Hùng Vương thứ 18. Cao Sơn còn gọi là Sùng
Công, Quý Minh là Hiển Công, đều có công giúp vua Hùng, đánh thắng giặc Thục.
Tại vùng đất tổ Phú Thọ ngài Cao Sơn Đại Vương được thờ ở
nhiều ngôi đền, đình, trong đó có đền Thượng, thể hiện sự biết ơn người có công
với dân tộc, thể hiện tinh thần đoàn kết một lòng.
Đền Thượng được xây dựng bằng một kiến trúc khá đặc biệt.
Phía trước, bên tả, bên hữu đều không có tường, không có cửa, chỉ có một bức hồi
ở phía chính giữa, trong cùng, phần tựa lưng vào núi đồi. Xưa kia, đền Thượng
trước làm bằng gỗ chắc, dựng 5 gian dọc, lợp lá cọ.
Đến năm Minh Mạng thứ 13 (1833) được lợp ngói, lát gạch, làm
sân, cổng, khang trang (tư liệu ghi). Đền gồm hai mái lợp bằng ngói đỏ, được
nâng bởi hai hàng cột gỗ sơn đỏ chạy song song từ cửa vào tận phía hậu cung, mỗi
bên 12 cột, tổng 24 cột gỗ.
Trên đỉnh cột, phần tiếp giáp với xà và mái đều có đầu rồng
được chạm khắc tinh xảo trầu vào tạo nên sự cổ kính, trang nghiêm của ngôi đền.
Hướng của đền Thượng là hướng chính Đông, phía trước là một không gian cánh đồng,
thôn làng thoáng đãng, rộng mở.
Phía tả là đồi núi nhấp nhô, trùng điệp, phía hữu là cánh đồng
lúa và dòng sông Thao cuộn chảy. Đây là địa thế sơn thủy đắc địa được các bậc
cao niên xưa lựa chọn để làm địa điểm dựng đền. Địa điểm đền cũng khá đặc biệt
bởi xưa kia là chính giữa giáp ranh giữa địa giới khu 7 xã Đan Hà và khu 2 xã
Đan Thượng. Đặc điểm này là nguyên do để cả hai làng Đan Hà và Đan Thượng cùng
tổ chức lễ hội hằng năm.
Không gian thờ tự của đền Thượng được bài trí phía trong cùng.
Ban thờ phía trên có ba bát hương. Bát hương chính giữa thờ ngài Cao Sơn, bát
hương bên tả thờ thất vị, võ tướng, bát hương bên hữu thờ nhất vị. Ban thờ phía
dưới có một bát hương công đồng.
Trong cung cấm có tượng ngài Cao Sơn Đại Vương được tạc bằng
gỗ, phía trước có đôi rồng chầu, bên trên có hai chữ thếp vàng “Thiện Đức”.
Phía hữu có ban thờ ngài bản cảnh thành hoàng làng Đan Hà, có một pho tượng cổ
bằng gỗ.
Trước đây ngài được thờ ở đình Trắng làng Đan Ha nhưng sau
này, đình bị xuống cấp nên nhân dân rước ngài về phối thờ ở đền Thượng. Ở hai
bên tả, hữu bức tường có phù điêu ngũ hổ và ban thờ. Trong đền có hai quả
chuông đồng và một trống cái để phục vụ cho các nghi lễ, tín ngưỡng tại đền.
Xưa kia đền Thượng được các triều vua ban nhiều đạo sắc như
sắc phong vào thời Tự Đức năm thứ 6 (1853), Tự Đức năm thứ 33 (1880), Đồng
Khánh năm thứ 2 (1886), Duy Tân năm thứ 3 (1909) và Khải Định năm thứ 9 (1924).
Nhưng do thời gian, chiến tranh, hỏa hoạn nên đến nay không
còn giữ được. Chỉ còn nội dung do các bậc cao niên trong làng Đan Thượng ghi lại
từ năm 1938. Trong đó có đoạn trong sắc phong của Vua Tự Đức năm 1864, ngày 11
tháng Giêng: “Sắc Cao Sơn tôn thần nguyên tặng linh phù chính Đôn uy Đôn tĩnh
hùng tuấn Thượng đặng thần hộ quốc tý dân lẫm trước linh ứng tú kim bản ứng, cảnh
mạnh diễn liệm thân hưu khả gia tặng hiệp linh phù chính Đôn uy Đôn tĩnh hùng
tuấn trác vỹ Thượng đẳng thần, nhưng chuẩn Hạ Hòa huyện Đan Thượng, Đan Hạ nhị
xã y cựu phụng sự, thần kỳ tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai. Tự Đức lục niên
chính nguyệt thập nhất”.
Ngày 06/10/1998, UBND tỉnh Phú Thọ đã ra quyết định số
2153/QĐ-UBND công nhận đền Thượng là di tích lịch sử, văn hóa cấp tỉnh.
Lễ hội của đền Thượng được tổ chức vào ngày mùng 7 tháng
giêng hằng năm. Theo truyền thống từ xa xưa, cả hai xã Đan Hà và Đan Thượng
cùng đồng lòng tổ chức lễ hội.
Vào sáng mùng 7, trong tiết trời mùa xuân ấm áp, dân làng rước
lễ từ UBND hai xã đến sân đền Thượng để tiến hành nghi lễ. Xưa kia, các làng
thường tổ chức mổ lợn đèn tuyền để dâng thánh, tổ chức cuộc thi mổ lợn nhanh, nếu
làng nào mổ nhanh, đem đầu lợn nhúng nước sôi rồi mang lên đền trước để cúng lễ
sẽ thắng cuộc.
Đến nay tục mổ lợn vào hội không còn nữa. Thay vào đó, chính
quyền và dân làng hai xã dâng lễ gồm bốn lễ xôi gà. Trong đó ba lễ đặt cúng ở
ban trên, một lễ cúng ban dưới cùng với hoa quả, bánh kẹo.
Khi lễ đã được sắp đầy đủ, thủ nhang đền đọc bài khấn sau đó
đại diện Đảng ủy, chính quyền và nhân dân vào thắp hương tri ân công đức của
ngài Cao Sơn Đại Vương, các vị thần và bản cảnh thành hoàng. Phần hội xưa kia
được tổ chức với các trò chơi dân gian, hội vật nhưng nay không còn tổ chức nữa.
Ngoài ngày lễ chính, trong năm, đền Thượng còn có các lễ như
lễ xuân thu nhị kỳ vào ngày mùng 10/2 và mùng 10/8 âm lịch hằng năm. Hai ngày lễ
này cũng dâng cúng bốn lễ như ngày mùng 7 tháng giêng.
Ngày lễ đóng cửa rừng vào 25 tháng chạp hằng năm dâng cúng
hai lễ xôi gà, hoa quả. Vào ngày mùng 1 và ngày rằm của các tháng trong năm chỉ
dâng cúng lễ chay gồm hoa, một cầu bánh khảo, một cầu bánh nướng, một cầu bánh
dẻo.
Sau lớp rêu phong in đậm dấu ấn thời gian, lần theo những
hàng chữ nho và nét kiến trúc phía mặt tiền của ngôi đền, chúng ta sẽ cảm nhận
được nét tài hoa của nghệ thuật tạo tác đền chùa, những tư tưởng được cổ nhân gửi
gắm vào dòng câu đối hai bên cửa đền cùng với bài thơ được dân gian truyền tụng.
Trong đó, hai câu thơ: “Rồng bay phượng múa lừng Nam Bắc/ Hổ phục nghê chầu nức
Tây Đông” được lấy làm hai câu đối, viết bằng chữ Nho ở hai bên cửa đền.
Đền Thượng là ngôi đền cổ kính, gắn với tín ngưỡng thờ cúng
Hùng Vương trên vùng đất Hạ Hòa, ngôi đền kết tinh những giá trị văn hóa, nghệ
thuật độc đáo từ xa xưa.
Nguyễn Thế Lượng