Đền Thụy Hương có từ đầu thế kỷ XVII thuộc thôn Thụy Hương, xã Phú Cường, huyện Sóc Sơn, Thành phố Hà Nội, thờ phụng các vị danh tướng Thánh Tam Giang 4 anh em danh tướng Trương, Hống, Trương Hát, Trương Lừng, Trương Lẫy cùng bà em Đạm Nương triều đại Lý Nam Đế có công chống quân xâm lược nhà Lương.
Làng Thụy Hương có nguồn gốc rất xa xưa. Dưới thời vua Lý
Nam Đế (544—548) gọi là làng Gia Hạ, lúc đầu ở tại Đồng Nẻ, về sau chuyển về
sát sông Cà Lồ. Năm 557, thời Triệu Việt Vương, làng Gia Hạ đổi tên thành Hương
Gia. Đến năm 1916, thời Nguyễn, làng đông dân nên chia đôi thành Hương Gia và
Thụy Hương, thuộc về tỉnh Bắc Ninh. Ngày 20/6/1949, Thụy Hương thuộc về xã Phú
Cường, huyện Kim Anh, tỉnh Vĩnh Phú. Ngày 05/5/1977, huyện Kim Anh hợp nhất với
huyện Đa Phúc thành huyện Sóc Sơn. Ngày 29/12/1978 huyện Sóc Sơn chuyển về TP
Hà Nội.
Đền Thuỵ Hương giáp sông Cà Lồ. Photo NCCong ©2017
Đền Thụy Hương thờ 4 anh em danh tướng Trương, Hống, Trương
Hát, Trương Lừng, Trương Lẫy cùng bà em Đạm Nương có công trong cuộc kháng chiến
chống quân xâm lược nhà Lương. 3 ông anh đầu được vua Triệu Việt Vương phong tướng,
sau khi mất họ đã được nhân dân tôn làm Thánh Tam Giang và thờ phụng ở nhiếu
làng xã dọc theo con sông Cà Lồ.
Đền được khởi dựng dưới thời Mạc hoặc Lê Trung hưng, đạo sắc
phong sớm nhất hiện còn lưu giữ trong đền có ghi niên đại Phúc Thái thứ 5 (năm
1647). Dân sở tại cho biết trước kia đền nằm ở gần đường trục của làng, sau gặp
nhiều chuyện không hay nên mới phải lùi khoảng 50m về vị trí bây giờ.
Ngày 05/3/1990, ngôi đền đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp
hạng là Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia.
Cổng đền Thuỵ Hương. Photo NCCong ©2017
Kiến trúc
Đền Thụy Hương xây trên một khoảnh đất rộng ven sông, xung
quanh có tường bao. Đền đã được trùng tu nhiều lần, nay mang dáng dấp phong
cách nghệ thuật kiến trúc thời Nguyễn. Năm 1928 nhà trung đường, nhà cầu và hậu
cung đã được sửa chữa. Năm 1940 sửa nhà tiền đường. Gần đây lại sửa toàn bộ và
mở thêm 1 cổng phụ vào bãi đỗ xe.
Mặt đền nhìn về phía tây nam sang khu biệt thự Quang Minh ở
bên kia sông Cà Lồ, lưng đền quay ra đường làng. Cạnh cổng đền có một cây đa
lông khá to đã được xếp hạng là "Cây di sản Việt Nam". Trong khuôn
viên của di tích hiện nay còn giữ được gần đầy đủ các công trình kiến trúc, sát
bức tường bên phải lại mới có thêm một nhà giải vũ với bia ghi tên những người
đóng góp công đức tu sửa đền.
Cây đa đền Thuỵ Hương. Photo NCCong ©2017
Từ đường xóm đi vào qua cổng đền ta sẽ thấy một sân gạch rộng,
bên trái là tòa nhà tiền đường 7 gian, xây kiểu đầu hồi bít đốc tay ngai. Ngôi
đền có mặt bằng nền với bố cục “Tiền chữ Nhất, hậu chữ Công”. Nhà trung đường
(toà đại bái) gồm 5 gian 2 chái, nhà cầu và hậu cung đều rộng 3 gian. Bên trong
đền còn giữ được một số mảng chạm khắc và di vật in đậm phong cách nghệ thuật hồi
thế kỷ XVII—XVIII.