Đền Tiên Nga tọa lạc ở số 53, phố Lê Lợi, phường Máy Tơ, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Đền thờ Vũ Quận Quyến Hoa Công chúa, Liễu Hạnh Công chúa và Quan Đệ tam Hoàng Thái tử. Vũ Quận Quyến Hoa Công chúa là nữ tướng quân lương của đại quân vua Ngô Quyền.
Trong số trên 378 di tích lịch sử văn hóa xếp hạng cấp thành
phố của Hải Phòng, đền Tiên Nga là địa điểm chính thờ bà và cũng là di tích duy
nhất thờ một nữ tướng làm nhiệm vụ quân lương, hậu cần phục vụ cho chiến dịch lớn
đầu tiên của dân tộc ta, đại phá quân xâm lược trên sông Bạch Đằng.
Đền Tiên Nga là nơi duy nhất ở miền Bắc nước ta ghi dấu
phong trào Duy Tân - Đông Du. Một trào lưu tư tưởng yêu nước, cách mạng rộng lớn
đầu thế kỷ XX, do chí sĩ Phan Bội Châu khởi xướng và lãnh đạo.
Đền Tiên Nga tọa lạc ở số 53, phố Lê Lợi, phường Máy Tơ, quận
Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Đền thờ
Vũ Quận Quyến Hoa Công chúa, Liễu Hạnh Công chúa và Quan Đệ tam Hoàng Thái tử.
Trong các vị thần được thờ trên, Vũ Quận Quyến Hoa Công chúa
là nhân vật lịch sử đặc biệt. Bà là nhân thần, người làng Gia Viên, huyện An
Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương xưa. Làng Gia Viên, nay phần lớn là địa phận
phường Máy Tơ, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.
Trong chiến dịch tiêu diệt 20 vạn quân xâm lược Nam Hán trên
sông Bạch Đằng năm 938 do anh hùng dân tộc Ngô Quyền chỉ huy. Bà Vũ Quận là vị
nữ tướng đảm nhiệm lo việc quân lương cho đại quân vua Ngô Quyền.
Tọa lạc ở mặt đường phố Lê Lợi, phường Máy Tơ (quận Ngô Quyền),
từ con phố sầm uất, ồn ã, bước qua cổng tam quan vào trong sân đền, tâm hồn du
khách bỗng trở nên nhẹ nhàng, thư thái.
Ngay trước cửa đền, một cây sanh cổ thụ gốc cuộn chằng chịt,
tôn thêm vẻ linh thiêng, tỏa bóng mát cả khoảng sân rộng rãi. Cây sanh có tuổi
đời hơn 150 tuổi vừa được Hội bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam công nhận
là cây di sản Việt Nam.
Bên trong đền là các ban thờ bài trí khang trang lộng lẫy.
Theo các tài liệu lịch sử, đức Vũ Quận Quyến Hoa công chúa sinh ra tại làng cổ Gia
Viên (hay còn gọi là làng Cấm) thuộc tổng Gia Viên, huyện An Dương (tỉnh Hải
Dương) trước đây. Bà xinh đẹp, đảm đang và rất linh hoạt, được trọng dụng làm
tướng chuyên lo việc quân lương, góp công lớn giúp đại quân của vua Ngô Quyền
đánh tan quân xâm lược Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938, mở ra kỷ nguyên độc
lập của nước ta sau hơn nghìn năm Bắc thuộc.
Vua Ngô Quyền đã sắc phong cho bà là Ngô Vương Vũ quận chúa.
Nhớ ơn công lao của Đức vương Ngô Quyền, nhân dân tôn vinh thần hiệu của Ngài
là Ngô Vương Thiên Tử, tôn vinh thần hiệu của Vũ quận chúa là Quyến Hoa Công
chúa. Năm 1924, vua Khải Định (triều Nguyễn) chính thức sắc phong Bà là “Vũ quận
Quyến Hoa công chúa Tôn Thần” và chuẩn cho làng Gia Viên được phụng thờ hương hỏa
vĩnh viễn.
Không chỉ ở làng Gia Viên, sau này, cứ ở đâu thờ Đức vương
Ngô Quyền thì đều phối thờ Bà chúa Vũ quận. Trải qua nhiều biến động của lịch sử,
ngôi đền thờ Bà Vũ quận Quyến Hoa công chúa trở thành chốn linh thiêng với nhiều
điều linh ứng. Bà được người dân tôn là Bà Chúa Nam Phương. Tương truyền, sau
khi hóa, bà hiển thánh ngao du khắp mọi miền, thường hay về ngự trên các ngọn
đa cổ thụ.
Tại nhiều gốc đa cổ thụ, người dân lập miếu thờ Bà Chúa Nam
Phương. Trong đó, 2 cây đa ở khu vực đầu đường Lê Đại Hành, quận Hồng Bàng và
Công ty giày Thống Nhất ở đường 208, xã An Đồng, huyện An Dương là linh thiêng
hơn cả vì tương truyền là nơi ngài hiển thánh về ngự, đánh rơi chiếc hài ở gốc
cây.
Đền Tiên Nga phối thờ đức mẫu Liễu Hạnh công chúa, đức thánh
Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn và các vị phúc thần bản xã theo tín ngưỡng
dân gian. Đền cũng thờ phụng các vị tiên hiền, liệt sĩ có công với đất nước như
Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lương Văn Can, Nguyễn Hữu Tuệ… tại vị trí trang
trọng.
Theo nhà sử học Ngô Đăng Lợi (Hội Khoa học lịch sử Hải
Phòng), thời kỳ phong trào Đông Du (1905-1909) trong 1 lần vượt biển ra nước
ngoài, cụ Phan Bội Châu được cụ Nguyễn Hữu Tuệ, là người xuất thân từ gia đình
nhà nho ở làng khoa bảng Gia Viên, làm công nhân tại bến Sáu Kho (nay là cảng Hải
Phòng), sớm giác ngộ cách mạng, tham gia hoạt động trong các phong trào yêu nước,
bí mật nuôi giấu tại đền Tiên Nga và sau đó giúp đỡ xuống tàu xuất dương.
Không chỉ cụ Phan Bội Châu, nhiều nhà yêu nước khác cũng tìm
đến Nguyễn Hữu Tuệ để được giúp đỡ xuất dương tìm đường cách mạng. Với những
giá trị lịch sử văn hóa to lớn đó, đền Tiên Nga được UBND thành phố xếp hạng là
di tích lịch sử văn hóa từ năm 2007.
Sử sách ghi chép để lại về bà không nhiều, nhưng truyền ngôn
lưu lại trong dân gian về bà rất sâu đậm. Bà đã hiển thánh trong tâm thức của
người dân, đã được nhân dân lập đền, miếu phụng thờ và tôn vinh “Bà Chúa Nam
Phương” hay còn gọi “Chúa Bà Nam Phương”. Miếu, đền phụng thờ bà được gọi là đền
Chúa, miếu Chúa.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ tín ngưỡng thờ mẫu, tín ngưỡng
bản địa của người Việt. Chúa Bà Nam Phương đã trở thành vị thánh đặc biệt. Xung
quanh Chúa Bà, dân gian có nhiều câu chuyện tâm linh tôn vinh đạo hạnh của Bà. Trong
tín ngưỡng dân gian, người dân đã, đang hình thành tôn vinh, đưa “Chúa Bà Nam
Phương” vào ngôi vị trong hệ thống thờ tứ phủ.
Đền Tiên Nga xưa thuộc làng Gia Viên, có tên Nôm là làng Cấm,
thuộc tổng Gia Viên huyện An Dương, xứ Hải Dương. Đền Tiên Nga được khởi dựng
vào thời gian nào chưa có tư liệu để xác định. Cuối thế kỷ XIX (năm 1890),
chính quyền Pháp xây dựng nhà thờ Công giáo và khu ở riêng cho các gia đình người
Pháp làm việc tại cảng Hải Phòng. Làng Cấm bị lấy một phần đất nên đền Tiên Ng
phải di chuyển đến vị trí hiện nay.
Từ năm 1890 đến 1925, đền mới hoàn thành xây dựng. Thời gian
này, đền Tiên Nga thuộc sở hữu của giáp Phúc Thần, năm 1925 được đổi thành giáp
Tân Phúc. Đền Tiên Nga xây lúc ban đầu có mặt bằng kiến trúc kiểu tiền nhất hậu
đinh, gồm ba gian hậu cung đồng thời cũng là cung cấm, ba gian trung đường và
ba gian tiền bái.
Kể từ khi xây dựng đến nay đã qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa.
Nhưng phần kiến trúc kỳ đài xây trên hiên thượng còn bảo tồn đến ngày nay. Từ
năm 1999, Ban quản lý di tích đền Tiên Nga được phường Máy Tơ thành lập, các hoạt
động trùng tu, tôn tạo di tích mới bài bản và bảo tồn được kiến trúc truyền thống
vốn có của ngôi đền.
Đền Tiên Nga hướng Tây Bắc, Nghi môn xây dựng năm 2005, theo
kiểu thức truyền thống.
Nghi môn xây dựng hoành tráng kiểu Tam quan: chính môn, tả
môn và hữu môn. Chính môn có hai tầng mái, tầng trên tạo thành bốn mái, gồm hai
mái dài và hai mái ngắn. Mái làm bằng bê tông, cốt sắt, kiểu chéo đao tầu góc.
Mái được dán ngói vẩy cá, phẳng đều. Bờ nóc mái trang trí kiểu hoa chanh kép. Đỉnh
bờ nóc mái, ở giữa đắp hổ phù hàm thọ, đội mặt nguyệt, hai bên đầu bờ nóc đắp
kìm ngậm bờ nóc, đuôi kìm tạo thành các vòng tròn uốn cong như những đám mây cụm,
thể hiện ước vọng mưa thuận gió hoà của cư dân Việt. Các đao cong đắp diệp hóa
long, khúc nguỷnh đắp lá guột. Diềm mái đắp hàng hoa văn lá đề.
Giữa hai tầng mái là cổ diêm, trên cổ diêm cả hai mặt trước
và sau nghinh môn tạo thành bức đại tự, trong đại tự đắp nổi bốn chữ Hán lớn:
“Tiên Nga linh từ”, có nghĩa đây là ngôi đền Tiên Nga linh thiêng.
Các chữ Hán được gắn những mảnh gốm nhiều mầu sắc, khi ánh
sáng mặt trời chiếu vào tạo vẻ đẹp lung linh, huyền ảo. Tầng mái dưới cũng như
mái trên, gồm bốn mái, hai mái dài và hai mái ngắn, cấu trúc chéo đao tầu góc,
làm bằng bê tông, cốt sắt và dán ngói vảy cá. Góc đao đắp trang trí rồng chầu,
phượng vũ. Tả môn, hữu môn kích thước nhỏ, tạo tác kiến trúc giống nhau, đăng đối
qua chính môn và chỉ có một phần mái ở bên ngoài, phần còn lại nối liền với trụ
của chính môn. Phần mái của tả môn, hữu môn cũng làm theo kiểu thức chéo đao tầu
góc.
Đỉnh góc bờ nóc đắp
hoa văn chữ triện lá giắt, khúc nguỷnh đắp lá guột, đao cong đắp diệp hóa long.
Mái bằng bê tông, cốt sắt, dán ngói vảy cá phẳng, đều. Bờ nóc trang trí hoa
chanh kép. Diềm mái trang trí hoa văn lá đề chạy theo hình cong đều của mái.
Các trụ của nghinh môn, chân tạo dáng quả bồng, trên đắp nổi
hoa văn diệp. Đầu trụ tạo dáng đấu kê dật ba cấp theo hình nhỏ dưới, to dần về
phía trên. Trên các mặt trụ nghinh môn, đắp khung câu đối, trong đắp nổi các
câu đối chữ Hán sơn then.
Ngoài những phần trang trí chính, trên kiến trúc nghi môn đền
Tiên Nga còn trang trí điểm xuyết theo các đề tài tứ quý, hoa lá thiêng. Nhìn tổng
thể nghinh môn đền Tiên Nga là công trình kiến trúc vững chắc, trang trí mỹ thuật
khá đẹp; quy mô, kích thước hài hòa với tổng thể không gian, cảnh quan kiến
trúc của khu di tích.
Từ nghi môn đền Tiên Nga bước xuống hai bậc cấp là sân đền.
Sân lát phẳng, đều bằng gạch đất nung đỏ truyền thống, nhưng có kích thước lớn.
Đi qua khoảng sân đến trước cửa đền phía ngoài, trên trục đường thần đạo là
nhang án làm giả bằng đá. Nhang án được quây bốn mặt chân, trên phần quây, mặt
tiền đắp nổi đề tài long cuốn thủy, hai mặt hồi đắp nổi đề tài hoa sen, cá
chép, mặt hậu đắp vân tản.
Trên nhang án đặt sập thờ nhỏ bằng gỗ và bộ ngũ sự; ngày đêm
đèn, nhang tỏa sáng, hương thơm phụng thờ không bao giờ tắt. Hai bên nhang án,
trước cửa đền có hai lân đứng chầu nhìn ra phía ngoài sân, tư thế trông coi nơi
cửa thánh, soi rọi tâm thế của những người về chiêm bái nơi thánh ngự linh
thiêng.
Kể từ khi khởi dựng đến năm 2012 - 2013 đền Tiên Nga được
trùng tu, tôn tạo toàn diện với quy mô to lớn. Đền Tiên Nga hiện nay, xây dựng
theo thể thức truyền thống, kiến trúc kiểu trùng thềm, điệp ốc, gồm bốn tòa nhà
nối liền với nhau, các mái chảy ghép sát vào nhau. Kiến trúc ngôi đền được gọi
là “Điệp trùng lâu” theo thứ tự từ trong ra ngoài: Tòa đệ nhất, tòa đệ nhị, tòa
đệ tam và tòa đệ tứ.
Các tòa xây theo thức đầu hồi bít đốc, trụ đấu. Riêng tòa đệ
tứ xây thêm phần “hiên tây, máng thượng”. Phần hiện tây của tòa đệ tứ bằng bê
tông, cốt sắt, chắc chắn và có diện tích khá rộng rãi.
Trên hiên tây ở vị trí gian chính giữa của đền xây dựng kỳ
đài. Đây là phần kiến trúc xây dựng từ đầu thế kỷ XX, có tuổi gần một trăm năm,
hiện được bảo tồn tương đối cho đến ngày nay. Kiến trúc kỳ đài xây dựng có quy
mô kích thước vừa phải, hài hòa với kiến trúc chung của ngôi đền.
Theo minh văn khắc trên chuông của kỳ đài đúc năm 1934, kỳ
đài là phần kiến trúc linh thiêng, để thượng cờ, tạo thêm vẻ đẹp bề thế, uy
linh cho đền Tiên Nga. Kỳ đài cũng là một lầu chuông, để thỉnh chuông lệnh khi
có những tiết lệ lớn của đền.
Kỳ đài kiến trúc một gian, kích thước mặt bằng gần như
vuông, chồng diêm hai tầng tám mái, mái bằng bê tông, cốt sắt, dán ngói vảy cá,
mái đao cong, chéo đao tầu góc.
Tầng mái trên, hai đầu bờ nóc đắp trang trí hoa văn, hoa dây
chữ triện lá giắt, đao đắp lá guột, xung quanh diềm mái trang trí hàng hoa văn
lá đề. Trên cổ diêm mặt tiền, trang trí khung ô, trong đắp nổi ba chữ Hán lớn
tên của đền “Tiên Nga từ”. Mái dưới, đao cong đắp diệp hóa long. Kỳ đài chỉ có
một cửa nhỏ để ra vào, ở tường hồi phía Tây. Tường mặt tiền kỳ đài trổ cửa sổ
hình tròn, trong đặt tấm đan tạo hình chữ thọ theo lối chữ Hán triện cách điệu.
Trên kỳ đài các góc tường đắp trụ đấu để đảm bảo cho kết cấu
công trình vững chắc, đồng thời tạo thêm vẻ đẹp cho kiến trúc. Trên trụ góc tường
mặt tiền kỳ đài tạo khung câu đối, trên đắp câu đối chữ Hán.
Đền Tiên Nga từ trong ra ngoài, đầu tiên là tòa đệ nhất, đây
cũng là cung cấm của đền. Cung cấm chỉ có một gian rộng, song hai tường hồi
cũng đắp giả hai bộ vì kiểu xà quá giang, một hàng chân cột, vì nóc kết cấu chồng
rường giá chiêng, con nhị. Vì nách thuận chồng hai con, trên các thuận đắp hoa
văn lá lật, đấu kê đắp hoa sen cách điệu. Cửa cung cấm năm cánh, làm theo thức
cửa cổ, cửa thùng khung khách, thượng song, hạ bản. Cách cấu tạo cửa như trên vừa
đảm bảo cho cung cấm lưu thông không khí, ánh sáng vừa phải với bên ngoài. Đồng
thời, để người dân đến dâng hương, lễ bái tại đền vẫn chiêm bái và kiến diện được
thấp thoáng hình bóng các vị thánh mẫu ngự trong cung cấm.
Tòa đệ nhị và tòa đệ tam có quy mô, kích thước tương tự
nhau. Cấu trúc hệ thống khung chịu lực giống nhau, mỗi tòa có hai bộ vì làm giả
gỗ. Hai bộ vì cấu tạo kiểu vì bốn hàng chân cột. Vì nóc cấu trúc kiểu giá
chiêng, thuận chồng hai con, vì nách kết cấu thuận chồng ba con. Trên các con
thuận được đắp nổi lá guột, các đấu kê đắp nổi hoa sen cách điệu. Đầu dư đắp
vân tụ kết thành hoa. Hai đầu hồi trên tường đắp nổi hai bộ vì giả, cấu trúc
tương tự như các bộ vì khác của bộ khung tòa nhà. Toàn bộ hệ thống khung kể cả
vì. già đều được giáp nhẵn, sơn mầu, tạo giả vân gỗ, nên trông khá đẹp như làm
bằng thiết mộc.
Tòa đệ tứ kích thước chiều dài như tòa đệ tam, tòa đệ nhị,
nhưng lòng nhà nhỏ hơn. Khung chịu lực của tòa đệ tử gồm hai bộ vì kiểu xà quá
giang, hai hàng chân cột. Tuy nhiên, cột tiền đỡ xà là tường đền phía trước xây
bổ trụ, cột hậu đỡ xà là cột quân của tòa đệ tam. Đây là hai bộ vì gỗ lim còn
được bảo tồn lại từ xa xưa. Trên câu đầu bộ vì bên tả, khắc dòng chữ Hán: “Càn
nguyên hạnh lợi trinh”, nghĩa là: đứng đầu, to lớn, thuận lợi, bền vững. Đây là
đại minh chú trong tín ngưỡng tâm linh của người Việt.
Bộ vì bên hữu, khắc chữ Hán: “Giáp Tý niên thụ trụ”, nghĩa
là vào năm Giáp Tý dựng cột, đặt nóc tòa nhà. Như vậy, qua thông tin trên cho
ta thấy, năm 1924 (năm Giáp Tý) đền Tiên Nga được trùng tu lớn, làm mới bộ
khung vì gỗ trên. Bộ vì tòa đệ tứ, vì nóc cấu trúc chồng rường giá chiêng con
nhị, vì nách kết cấu thước thợ chồng. Toàn bộ ngôi đền có hệ thống dàn đỡ mái
hoành, rui đều bằng gỗ tốt, được bào nhẵn, sơn bóng,hoành được soi sen, mái lợp
ngói mũi hài của cơ sở sản xuất Giếng Đáy phẳng, đều và đẹp.
Ba tòa nhà đệ nhị, đệ tam và đệ tứ, tường hồi, phía trên cao
của vỉ ruồi gần nóc, đều có cửa tròn nhỏ để thông khói. Các tường hồi có cửa sổ
kích thước lớn, làm theo thức cửa cổ, bằng gỗ, song vuông, hai lập là, đảm bảo
cho các tòa nhà thông thoáng.
Mặt tiền hai hồi tòa đệ tứ là hai trụ đèn, được xây trên
hiên tây, chân trụ cấu tạo kiểu quả bồng, đầu trụ đắp đèn lồng, đỉnh trụ đắp
hai nghê chầu vào đền. Nối liền hai trụ đèn, trên mặt hiên, đắp hoa văn hoa
dây, chữ triện lá giắt, tạo dáng tam sơn (ba núi), đăng đối với nhau, giữa cao,
hai bên thấp.
Trên đỉnh bờ nóc tòa đệ tử, đắp hổ phù đội mặt nguyệt, hai đầu
bờ nóc đắp hoa dây chữ triện lá giắt. Nhìn chung, kiến trúc đền Tiên Nga qua
trùng tu, tôn tạo gần đây đã khôi phục, kế thừa và phát huy những giá trị kiến
trúc truyền thống vốn có của ngôi đền, đáp ứng được ước mong của nhân dân đối với
nơi thờ Bà Chúa Nam Phương, nổi tiếng thiêng liêng trong tín ngưỡng của người
dân trong và ngoài thành phố Hải Phòng.
Nguồn: Thành đoàn Hải Phòng