Đền Trung hay còn gọi là Trung Cung. Theo cuốn Ngọc Phả "Sự tích Đức Thánh Tản" lưu giữ tại Đền Và (Đông Cung) do Quản giám bách thân Nguyễn Hiển sao lại năm Vĩnh Hựu thứ 3 (1737) có ghi: Đền Trung là nơi thờ bà Ma Thị Cao Sơn, mẹ nuôi của Đức Thánh Tản Viên.
Theo truyền thuyết kể lại, bà Ma Thị là chủ thần núi Tản, cảm
mến đức độ của Sơn Tinh bà đã nhận Sơn Tinh làm con nuôi và lập chúc thư giao lại
toàn bộ đất đai ở vùng chân núi Ba Vì cho Sơn Tinh cai quản và lập đền thờ
hương hỏa cho bà sau khi bà mất. Như vậy bên cạnh việc thờ phụng Tam vị Đức
Thánh Tản Viên Sơn, Đền Trung còn thờ dưỡng mẫu của Ngài.
Đền Trung tọa lạc ở một vị trí tương đối bằng phẳng lưng chừng
phía Tây núi Ba Vì (khoảng cốt 600m) thuộc địa phận xã Minh Quang. Bên dưới là
dòng sông đà vắt ngang như dải lụa, nhìn sang phía bên kia bờ sông Đà là quê
hương của Đức Thánh Tản, theo một số tư liệu cho thấy Đền Trung được xây dựng từ
triều Lý, đến triều Nguyễn, vua Minh Mạng cho Tổng đốc Nguyễn Đăng Giai trùng
tu lại. Đền có kết cấu kiến trúc hình chữ Tam phỏng theo quẻ Càn trong kinh dịch,
biểu tượng cho sự bền vững gồm Tiền tế, Đại bái, Hậu cung.
Đền Trung nằm ở sườn Tây núi Tản
Đền có quy mô lớn, hoành tráng, gồm nhiều hạng mục kiến trúc
như miếu thờ Đức Ông, nhà Mẫu, nhà thờ Phật ... tất cả đã tạo thành một quần thể
di tích liên quan đến sự tích Đức Thánh Tản Viên Sơn Tinh và là ngôi đền có một
vị thế đẹp nhất trong các ngôi đền thờ Tản Viên ở Ba Vì.
Gần Đền Trung có một ngôi cổ tự danh lam bậc nhất đó là chùa
Tản Viên Sơn, điều đó càng làm cho khu di tích này trở thành một điểm đến không
thể tách dời của du khách khi hành hương về Ba Vì.
Đền Trung nằm ở lung chừng dãy núi Ba Vì
Ngôi đền nằm giữ rừng nhiệt đới, nơi lưng sườn núi. Cửa đền hướng về Tây, đối diện với núi Chàng Rể. Phía dưới là dòng sông Đà. Bên kia bờ sông chính là quê hương của Đức Thánh Tản
Đền Trung nằm bên bờ sông Đà êm ả
Giếng nước nhỏ trong đền Trung có từ rất lâu đời
Cũng có truyền thuyết kể lại rằng, cha Ngài là ông Nguyễn Cao Hạnh, me là bà Đinh Thị Đen. Đứng tuổi nhưng ông bà vẫn chưa có con. Do ăn ở hiền lành nên một hôm bà qua cánh đồng Móng, làng Tất Thắng đã ướm chân vào 1 hòn đá. Sau đó, bà đã có thai. Vì chồng cho rằng bà đã ngoại tình nên bỏ về quê ở miền biển. Không chịu nổi đàm tiếu nên bà Đen đã đến vùng sông Đà để sinh nở. Người con trai đặt tên là Tuấn. Cậu bé lớn lên rất khôi ngô, chăm chỉ. Sau này, thương tình cảnh mẹ con và Đen và quý mến cậu bé Tuấn nên bà Cao Thị đã nhận Tuấn làm con nuôi.
Lễ hội đền Trung tổ chức vào dịp Tết Nguyên Đán, cuối tháng 1, đầu tháng 2 Dương lịch
Không gian cổ kính, linh thiêng
Đền Trung Ba Vì có quy mô lớn, gồm nhiều hạng mục kiến trúc tâm linh. Gồm có miến thờ Đức Ông, nhà Mẫu, nhà thờ Phật trên sườn núi Ba Vì. Tất cả đều nằm trong quần thể di tích gắn kết trực tiếp với sự tích Thánh Tản Viên. Đây là ngôi đền thờ có vị thế đẹp nhất tại Tản Viên.
Đền Trung, đền Hạ và đền Thượng Bà Vì đều được xây dựng từ thời vua nhà Lý. Đến triều nhà Nguyễn, vua Minh Mạng lệnh cho Tổng đốc Nguyễn Đăng Giai nhiệm vụ trùng tu lại.
Ngôi đền Trung Ba Vì xây dựng theo lối kiến trúc quen thuộc của các đền, miếu trong dân gian. Gồm: Tam quan, Chính điện, đền Mẫu. Ứng với quẻ Càn trong Kinh dịch, thể hiện sự vững chắc, bền bỉ.
Bài thơ chữ Hán vịnh cảnh đên Trung
Tam quan gồm có 3 ô cửa vòm, có mái che phía trên. Vòm cửa chính có 2 trụ biểu nhô ra trước. 2 ô cửa 2 bên là vòm tường. Chính điện là kiến trúc chữ tam. Là Tiền đường, Trung đường và Hậu đường. Tiền đường gồm 5 gian. Có lưu lại bài thơ chữ Hán vịnh cảnh đền Trung. Phía phải đền Trung Ba Vì là đền Lang. Hay còn gọi là Lang Mẫu. Gồm 3 gian, có thờ bà Mai Thị, mẹ nuôi của Tản Viên.
Trung đường có bài trí tượng của 4 vị quan ở tư thế đứng. Với mũ áo chỉnh tế đứng 2 bên đối diện nhau. 4 vị biểu thị cho các đại thần trấn giữ 4 cung Đông- Tây- Nam- Bắc.
Phía hậu cung của đền có đặt 3 pho tượng Tam vị Đức Thượng đẳng. Ở giữa là tượng thờ Thánh Tản Viên. Hai bên là tượng Cao Sơn đại vương và Qúy Minh đại vương.
Chùm ảnh của khách du lịch tâm linh: