Đền Xuân Lãng Tổ dân phố Thống Nhất, thị trấn Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc thờ phụng Thánh Mẫu Triệu Thị Khoan Hòa và con thứ ba của bà, Ô Mễ đại vương triều đại Nhị vua Hai Bà Trưng
Lịch sử di tích
Được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia theo quyết định số
06/2000/QĐ-BVHTT ngày 13 tháng 4 năm
2000
Danh Tướng - Triệu Thị Khoan Hoà thuộc di duệ họ Triệu. Từ
khi họ Triệu mất nước, bà phải trốn tránh quân Hán, sống lưu lạc rồi đến cư ngụ
ở chùa Quảng Hưu, xã An Lãng, huyện Chu Diễn; nay là xã Thanh Lãng, huyện Bình
Xuyên.
Bà vốn là người con gái xinh đẹp tài sắc vẹn toàn. Bà có 5
người con trai, cả 5 đều có sức tài hùng dũng, chí khí hơn hẳn người thường, lại
tinh thông võ nghệ, giỏi văn chương, ý chí như biển rộng. Tương truyền, 5 người
con của bà được sinh ra cùng một bọc do giấc mộng tình với vị thần Vịt ở xứ
này, nở ra từ 5 quả trứng. Cũng bởi vậy, Bà đặt tên cho 5 con đều có chữ “áp
Lang”, nghĩa là chàng Vịt.
Đến tuổi trưởng
thành, cũng là thời kì nhị chúa Bà Hai Bà Trưng phát động cuộc khởi nghĩa, năm
anh em đều đến hội với Nhị vua Hai Bà Trưng ở cửa sông Hát, đem theo hơn 1000
người là quân bản bô, được Bà Trưng thu dùng ở trong quân và phân rõ danh tính,
chức vị.
Một người được phong làm Triều đình áp Lang tướng quân. Một
người được phong là án sát vụ tướng quân. Một người được phong là Quý Minh đại
vương. Một người được phong làm Điều Lương tướng quân chuyển vận hướng mễ. Một
người được phong làm Cương Đoán tướng quân hướng tiền đại lộ.
Cùng trong đại quân của Hai Bà Trưng, 5 vị tướng quân đốc xuất
quân thuỷ, quân bộ thẳng tiến đến thành Tô Định giao chiến. Thắng bại chưa
phân, một số quân sĩ của Hai Bà Trưng không quen thuỷ thổ, phần lớn mắc chứng
thương hàn, trở ngại đến công cuộc hành quân.
Áp Lang tướng quân tìm được vị thuốc để chạy chữa, số quân mắc
bệnh mau chóng khoẻ mạnh trở lại. Trong quân vô cùng hoan hỉ, đồng lòng như một,
xông lên đánh thành. Quân của Tô Định chết nhiều vô kể, thây chất đầy đồng, tràn ngập lối đi, chỉ có
Tô Định là thoát được. Bà Trưng thu hồi hết đất đai bờ cõi, được tất cả 65
thành ở Lĩnh Nam, xưng Vương.
Ba năm sau, thất bại ở
Cấm Khê, Nhị vua Hai Bà Trưng hy sinh, 5 vị tướng từ trong vòng vây của quân
thù đã mang được thi hài Hai Bà an táng ở Hi Sơn (thuộc làng He, phường Phúc Thắng, thị xã Phúc Yên).
Mai táng cho Hai Bà
xong xuôi, cùng dẫn quân nhằm thẳng vào quân giặc, chém được hơn 200 đầu giặc.
Rồi vừa đánh vừa rút. Tướng Hán truyền lệnh cho quân sĩ không được bắn lén để bắt
sống, nhưng năm vị vương nhờ thế mà thoát nạn, rút chạy về quê hương (An Lãng),
thu thập sĩ tốt để chống lại quân giặc. Tuy nhiên, phía trước không có quân cứu
viện, phía sau không có tiếp ứng, mà quân Hán lại ra sức truy bức, tiến lui đều
khó.
Đến nửa đêm, 5 vị vương chạy đến giữa đồng xứ Cổ Lộ. Biết
không còn đường thoát, 5 vị Vương mới ngửa mặt lên trời mà than: "Cúi mong
trời cao xét đến, sau khi chết có thiêng liêng nguyện được cùng Hai Bà Trưng gặp
gỡ, không thẹn trong đời mình không gặp được người hợp ý, ơn ấy không còn hối
tiếc gì nữa”. Sau đó tự vẫn, đó là ngày mồng 10 tháng Năm năm Nhâm Dần (42 sau
CN). Dân làng An Lãng lập đền thờ ở đây và đến cúng tế hàng năm.
Đến đời Vua Trần Nhân
Tông (1279 - 1293), nhân đại thắng quân Nguyên Mông lần thứ 3 (năm 1288), bắt sống
tướng Ô Mã Nhi, nhận được lời khai của dân xã An Lãng, mới gia phong Phúc thần
bậc thượng đẳng. Các triều đại về sau đều có sắc phong bách thần, tặng các “mĩ
tự”, cho thờ cúng. Vị thần Ô Mễ đại vương Đốc vận hướng mễ tướng quân được xã
Xuân Lãng thờ cúng. Hiện trong đền còn có 2 câu đối ghi công trạng:
Xướng nghĩa Trưng triều khai xã tắc
Hiển linh trần đại tráng sơn hà.
Đền Xuân Lãng được xây dựng vào thời Hậu Lê. Mễ Đại Vương là
con trai thứ ba Quốc Hoàng Hậu công chúa Triệu Thị Khoan Hoà người tham gia cuộc
khởi nghĩa của hai Bà Trưng đánh quân Hán xâm lược giành thắng lợi. Người có
công lớn được bà Trưng phong Đại vương.
Đền Xuân Lãng có giá trị lịch sử và kiến trúc nghệ thuật văn
hoá, có tác dụng trong sự nghiệp giáo dục truyền thống dân tộc.