Đền An Biên (còn gọi là Đền Nữ tướng Lê Chân) tọa lạc trên sườn núi Vàn thuộc làng Vẻn, thôn An Biên, xã Thủy An, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Đền được xây dựng để thờ nữ tướng Lê Chân - một danh tướng có tài trong thời kì Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống quân xâm lược phương Bắc trên quê gốc của bà.
Sau khi bà qua đời, nhân dân đã lập đền thờ ở nơi bà đã sinh
ra và lớn lên để tưởng nhớ một người con quê hương đã có những đóng góp to lớn
trong cuộc đấu tranh giữ nước vĩ đại của dân tộc ta đầu công nguyên và thể hiện
lòng tôn kính, nhớ ơn của các thế hệ sau này với người có công với nước.
Đền An Biên (Đền Nữ tướng Lê Chân) là nơi giáo dục thế hệ trẻ
về lòng yêu nước và truyền thống dân tộc trong cuộc đấu tranh dựng nước và giữ
nước.
Đền An Biên (Đền Nữ tướng Lê Chân) là nơi tưởng nhớ một danh
tướng có tài trong thời kì Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống quân xâm lược phương Bắc.
Với niềm tin tâm linh của người Việt “Thác là thể phách, còn là tinh anh” (người
tài giỏi mất đi, tinh thần ấy trở thành thần thánh) nên nhân dân luôn coi các vị
anh hùng dân tộc là các vị thần cứu tinh, giúp dân ta chiến thắng thiên tai địch
họa để tạo ra một niềm tin vĩnh hằng về cuộc sống ấm no, hạnh phúc vươn tới
tương lai.
Đền thờ bà Lê Chân được xây dựng ở quê gốc của bà để tri ân
người có công với dân, với nước và để đời đời con cháu noi theo tấm gương anh
dũng bất khuất của thế hệ đi trước. Đền An Biên (Đền Nữ tướng Lê Chân) là nơi
thể hiện niềm tự hào của nhân dân Đông Triều về truyền thống chống giặc ngoại
xâm ngay từ buổi đầu của cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Năm Tân Mùi (110 TCN) nước Việt ta đã bị nhà Hán xâm lược,
nhà Hán chia nước ta thành 7 quận để thống trị, cho Thạch Đái là thái thú. (Chế
độ nhà Hán lấy châu lãnh quận, trừ hai quận Châu Nhai, Đạm Nhĩ đều ở giữa biển,
còn 7 quận đều thuộc về Giao Châu, Đái là châu Thái Thú. Thời Tây Hán, trị sở của
Thái Thú đặt ở Long Uyên (tức Long Biên). Thời Đông Hán đặt ở Mê Linh (tức là
Yên Lãng). Đến khi Đái chết, Hán Chiêu Đế lấy Chu Chương thay.
Đến cuối thời Vương Mãng, châu mục Giao Châu là Đặng Nhượng
cùng các quận đóng chặt bờ cõi để tự giữ và thực hiện việc cống nạp cho nhà Hán
để cầu sự yên dân. Năm Kỷ Hợi (39), Thái Thú Giao chỉ là Tô Định vô cùng tham
lam tàn bạo ra sức vơ vét của cải và gây nhiều đau thương tang tóc cho nhân
dân.
Trước sự bạo ngược của Tô Định, nhân dân ta vô cùng căn hận,
một trong những người con ưu tú của đất nước là Trưng Trắc cùng chồng là Thi
Sách đứng lên dấy binh khởi nghĩa.
Trưng Trắc thuộc dòng dõi họ Lạc, con gái của Lạc tướng huyện
Mê Linh, Phong Châu, là vợ của Thi Sách huyện Chu Diên (Thi Sách cũng là con lạc
tướng). Trưng Trắc là người mưu lược dũng cảm; Thi Sách là người yêu nước có
khí chí quật cường, họ đã cùng nhau mưu việc lớn. Khi Tô Định thực hiện chính
sách cai trị vô cùng tàn bạo đối với nhân dân ta, Thi Sách đã cùng vợ kêu gọi
nhân dân đoàn kết một lòng cùng nhau chống lại sự tàn bạo của quân thù.
Trước sự lớn mạnh của cuộc khởi nghĩa, bọn quan quân của Tô
Định vô cùng hoảng sợ, chúng tìm cách bắt và giết chết Thi Sách hòng bóp chết
mưu đồ khởi nghĩa của hai người. Nhưng việc làm tàn bạo đó của Thái Thú càng
làm cho nhân dân ta căm phẫn và Trưng Trắc càng quyết tâm nổi dậy khởi nghĩa.
Trưng Trắc đã cùng em gái Trưng Nhị phất cờ khởi nghĩa ở vùng Hát Môn, nhân dân
và hào kiệt khắp nơi kéo về đây tham gia vào đội quân của hai bà.
Hai bà đã xây dựng căn cứ ở Phong Châu quyết tâm đánh giặc.
Nhân dân các quận Nhật Nam, Cửu Chân, Hợp Phố, Nam Hải đều hưởng ứng, hàng chục
nữ tướng khắp nơi nhất tề ứng nghĩa trong đó có đội quân của nữ tướng Lê Chân.
Thánh Lê Chân sinh ngày 08 tháng 03 năm 18 tại làng Vẻn, trang An
Biên, thuộc huyện Khúc Dương, quận Giao Chỉ (Nay thuộc thôn An Biên, xã Thủy
An, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh). Cha là Lê Đạo làm nghề dạy học, mẹ là
Trần Thị Châu làm ruộng.
Cả hai ông bà đều là người giàu lòng nhân ái, khẳng khái và
chính trực. Khi đã luống tuổi hai ông bà mới sinh được một người con gái đặt
tên là Lê Chân. Anh thư hào kiệt Lê Chân đã luôn được cha răn dạy lớn lên hãy làm việc nghĩa cho
dân, cho nước. Vâng lời cha, Lê Chân vừa chăm lo học chữ vừa luyện tập cung
đao. Hai mươi tuổi, tài võ nghệ và nhan sắc của anh thư Lê Chân đã nổi danh khắp vùng.
Sinh ra và lớn lên khi đất nước bị phong kiến phương Bắc xâm
chiếm và đô hộ, cuộc sống của nhân dân lầm than cơ cực. Anh thư Lê Chân vô cùng căm thù
quân giặc. Khi trưởng thành Lê Chân bị Tô Định ép lấy là tỳ thiếp, nhưng cha mẹ
Lê Chân không đồng ý. Tô Định tức tối đã tìm cách giết hại cha mẹ bà.
Thù nhà nợ nước đã giúp người con gái hiền thục của quê
hương An Biên, Đông Triều quyết tâm ra đi tìm cách trả nợ nước, trả thù nhà. Nợ
nước thù nhà đè nặng hai vai, Lê Chân từ biệt quê hương ra đi tìm nơi náu mình
và thực hiện chí lớn. Bà xuôi thuyền đi về phía biển đến vùng đất An Dương (Hải
Phòng ngày nay), thấy đất đai màu mỡ, sông ngòi chằng chịt, lau sậy um tùm, địa
thế hiểm trở rất thuận tiện cho việc làm ăn và lập căn cứ chống giặc.
Bà liền cho người về quê cũ đón gia quyến và những người
thân đến đây xây dựng trang ấp mới. Nhớ quê cũ bà đặt tên cho trang ấp mới là
An Biên. Theo truyền thuyết kể lại, sau ba năm khai hoang lấn biển, bà đã lập
được ngôi làng mới. Trong 10 năm bà ra sức tích lũy lương thực, luyện tập nghĩa
binh, liên kết, thu nạp hào kiệt trong vùng, chờ thời cơ trả thù nhà, nợ nước.
Tại quê hương mới, bà đã khéo liên kết với các hào kiệt quanh
vùng để tranh thủ lực lượng đồng minh, đó là anh em Lệnh Bá, Chính Trọng ở Quỳnh
Cư (Hải An); ba anh em họ Trương gồm: Trương Lại, Trương Tế, Trương Độ ở Thiểm
Khê (Thủy Nguyên); ba anh em họ Tạ gồm Tạ Huy Thân, Tạ Ả Ráng, Tạ Đam Dung
(Trình Xuyên); Đào Quang (Cự Đôi, Tiên Lãng); Phạm Đầm (Lễ Hợp, Tâm Đa, Vĩnh Bảo).
Được các nhà hào kiệt hết lòng ủng hộ, Lê Chân đã chỉ huy
quân sĩ thường xuyên luyện tập cách hành quân sao cho gọn nhẹ, đánh địch bất ngờ
và táo bạo. Bà là vị tướng có sở trường đánh thủy binh vì phần lớn quân sĩ của
bà là trai tráng vùng ven biển Đông Bắc rất thạo việc sông nước.
Là nữ nhi hiền thục nhưng trước sự bạo ngược của quân thù,
bà đã sớm tìm cho mình một con đường đúng đắn để giúp dân cứu nước. Khi Hai Bà
Trưng phất cờ khởi nghĩa Bà đã trực tiếp lên xứ Đoài tìm gặp hai nữ anh hùng và
đưa đội quân của mình đi theo hai bà. Đội quân do bà Lê Chân triệu tập đã nhanh
chóng trở thành cánh quân chủ lực hưởng ứng cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng và lập
căn cứ bên sông Cửa Cấm để đánh giặc.
Được Hai Bà Trưng tin cậy, nữ tướng Lê Chân đã luyện tập cho
quân sĩ của mình trở thành đội quân hùng mạnh nhất tham gia đánh đuổi quân Đông
Hán xâm lược. Từ Hải Phòng, Lê Chân chỉ huy nghĩa quân vùng ven biển đánh lên
phía Bắc và tụ nghĩa cùng đội quân của Hai Bà Trưng đánh giặc.
Một trong những trận đánh tiêu biểu do Lê Chân lãnh đạo là
trận đánh trên đất Kinh Bắc (Thuận Thành, Bắc Ninh ngày nay). Trận đánh diễn ra
bất ngờ làm quân địch không kịp trở tay, xác giặc ngổn ngang.
Trước sức mạnh của nghĩa quân, bọn quan quân đô hộ hốt hoảng
chạy như ong vỡ tổ. Thái thú Tô Định vứt cả ấn tín, cạo râu giả dạng thường dân
chạy trốn về nước. 65 thành trì được giải phóng vào ngày 15 tháng Tám (Âm lịch)
năm 40, đất nước được độc lập.
Sau chiến thắng, Bà Trưng Trắc được trăm họ suy tôn làm vua,
xưng hiệu là Trưng Vương, đóng đô ở Mê Linh (vùng đất Ba Vì, Tam Đảo nay thuộc
địa phận Phú Thọ, Vĩnh Phúc). Em gái Trưng Nhị được tấn phong là “Bình khôi
công chúa”.
Nữ tướng Lê Chân được tấn phong là “Thánh Chân công chúa” đứng
sau vị trí của Trưng Nhị và đảm nhận trọng trách “Trưởng quản binh quyền”, thống
lĩnh toàn bộ quân đội kiên trấn thủ vùng Hải Tần (tức vùng ven biển).
Trấn thủ miền Đông Bắc với trọng trách được giao, lại là người
có uy tín và thành thạo địa hình, thông hiểu tập quán của dân chài vùng biển. Nữ
tướng Lê Chân đã dốc sức tuần tra kiểm soát nghiêm ngặt thuyền bè ra vào.
Một mặt bà chăm lo củng cố biên ải, mặt khác lo tổ chức xây
dựng lực lượng, tuyển thêm dân binh, mở lò tập võ, mở sới luyện vật để luyện tập
quân sĩ tại vùng Mai Động, chăm lo đời sống nhân dân, khuyến khích nghề nông.
Bà luôn lấy đức để an dân, cố kết được mối đoàn kết trong dân nên được nhân dân
yêu mến kính trọng.
Nhân dân hăng hái lao động sản xuất, đất nước no ấm thanh
bình, giữ vững được nền tự chủ vừa giành được. Nhưng cuộc sống êm đềm đó chỉ được
ba năm thì quân thù lại kéo đến với lực lượng hùng hậu nhằm chiếm lại nước ta,
hòng rửa nhục cho sự thua đau trước đó.
Mùa xuân năm 42, giặc đưa hai vạn quân, hai ngàn thuyền chiến
tiến vào nước ta bằng hai đường thủy bộ do Mã Viện - một tên tướng giỏi nhất thời
Đông Hán cầm đầu.
Được tin, Trưng Nữ Vương cùng các tướng sĩ đưa quân xuống
Lãng Bạc (nay là Tiên Sơn, Bắc Ninh) đón đánh giặc. Nữ tướng Lê Chân cùng binh
sĩ và nhân dân vùng An Dương dốc sức lấp suối ngăn sông chặn đánh thủy binh giặc.
Lực lượng tuy ít nhưng tinh thần chiến đấu của quân ta vô
cùng dũng cảm, sau nhiều trận chiến đấu anh dũng, gây cho địch nhiều thiệt hại
nhưng thế giặc quá mạnh nên quân của Trưng Nữ Vương không giữ được Lãng Bạc nên
phải lui về Cẩm Khê.
Song do ý chí của quân sĩ giảm sút vì nghĩ rằng vua là đàn
bà lại thấy quân giặc quá mạnh, sợ không đánh nổi bèn tan chạy. Hai bà thế cô
đành phải nhảy xuống sông Đáy tự vẫn. Nước ta lại thuộc vào nhà Hán.
Riêng nữ tướng Lê Chân vô cùng đau xót và uất hận, bà đã đưa
một đạo quân quyết phá vòng vây của giặc, chạy về lập căn cứ cố thủ ở vùng núi
Lạt Sơn (nay là huyện Kim Bảng, tỉnh Nam Định) để tìm cách kháng chiến lâu dài.
Tại đây, bà đã cho quân sĩ tăng gia sản xuất, tích cực luyện tập võ nghệ để chờ
thời cơ tấn công giặc.
Mã Viện biết bà là một nữ tướng thao lược, được lòng dân nếu
để lâu sẽ không có lợi nên đã huy động toàn bộ lực lượng bao vây tiến đánh Lạt
Sơn. Dưới sự chỉ huy của bà, quân sĩ chiến đấu rất quyết liệt nhưng lực lượng
giữa ta và địch rất chênh lệnh, không thể kéo dài được lâu, bà đành phải cho
quân sĩ luồn rừng thoát hiểm về quê làm ăn chờ ngày nổi dậy.
Còn lại một mình bà đã tả xung hữu đột chiến đấu vô cùng
dũng cảm với quân giặc. Nhưng trong cuộc chiến không cân sức này, một mình bà
không thể vần xoay thế cuộc. Khi vòng vây của địch ngày càng khép chặt, bà đã
gieo mình xuống chân núi tuẫn tiết, hy sinh anh dũng vào ngày 25 tháng 12 (âm lịch).
Bà mất đi nhưng ý chí và nghị lực của bà còn sống mãi trong
lòng dân tộc. Để tưởng nhớ công đức và với lòng tiếc thương vô hạn người nữ tướng
tài ba, nhân dân vùng Lạt Sơn đã an táng và lập đền thờ ở nơi bà hy sinh.
Đồng thời ở làng An Biên, nơi bà chiêu tập nhân dân lập ấp
(nay thuộc thành phố Hải Phòng) và trang An Biên (quê hương bà, nay thuộc thị
xã Đông Triều) đã lập đền thờ để tưởng nhớ và phong bà làm thần.
Với niềm tin tâm linh của người Việt “Thác là thể phách, còn
là tinh anh” (người tài giỏi mất đi, tinh thần ấy trở thành thần thánh) nên
nhân dân luôn coi các vị anh hùng dân tộc là các vị thần cứu tinh, giúp dân ta
chiến thắng thiên tai địch họa để tạo ra một niềm tin vĩnh hằng về cuộc sống ấm
no, hạnh phúc vươn tới tương lai.
Việc xây dựng đền thờ bà Lê Chân là việc làm ý nghĩa để ghi
nhớ những người có công với dân với nước và để đời đời con cháu noi theo tấm
gương anh dũng bất khuất của thế hệ đi trước.
Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng in đậm dấu son trong sử sách,
trong ký ức dân gian qua nhiều thế hệ. Các nữ tướng, nam thần của cuộc khở
nghĩa đều có đền thờ, được nhân dân đời đời khói hương tưởng kính.
Nữ tướng, Thánh Chân công chúa, Chưởng quản binh quyền Lê
Chân được nhiều địa phương thờ phụng. Đó là: Đền An Biên (xã Thủy An, thị xã
Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh) quê hương nữ tướng; đền Nghè (An Biên cổ miếu), đình
An Biên (phường An Biên), đình Vẻn ngoài (phường Trại Cau) quận Lê Chân, thành
phố Hải Phòng là nơi Bà khai hoang, lập nên trang ấp, xây dựng lực lượng và chặn
đánh cuộc xâm lược của Mã Viện.
Triều đại Hai Bà Trưng và các tướng sĩ tuy chỉ có ba năm ngắn
ngủi nhưng ý chí độc lập, tự chủ và tinh thần dũng cảm quật cường của Hai Bà
Trưng và các tướng sĩ như nữ tướng Lê Chân còn lưu mãi đến ngày nay.
Di tích Đền An Biên, Đông Triều được xây dựng để thờ nữ tướng
Lê Chân, bởi vậy các ngày lễ của đền đều gắn liền với ngày sinh, ngày mất và
ngày chiến thắng của bà. Mỗi năm di tích có ba ngày lễ lớn: ngày mùng 8 tháng 2
(âm lịch) - ngày sinh của bà, ngày 25 tháng 12 (âm lịch) - ngày mất của bà,
ngày 15 tháng 8 (âm lịch) - ngày thắng trận.
Ngày xưa, lễ hội được tổ chức công phu, có lễ rước thần và
diễn lại công trạng hành binh đánh trận phá giặc của thần và của quân dân ta.
Quan trọng nhất trong lễ hội là lễ tế thần, đây là cuộc diễu lễ, dâng lễ vật, đọc
chúc văn tỏ ý kính trọng biết ơn thần, cầu xin thần ban tốt lành mới. Tế thần
là sự giao cảm giữa người và thần, là hoạt động thiêng liêng nhất mở đầu lễ hội.
Nhưng một thời gian dài do điều kiện kinh tế khó khăn và chiến
tranh tàn phá, đền bị hư hỏng nên lễ hội Đền An Biên (Đền Nữ tướng Lê Chân)
không được duy trì. Ngày nay, được sự quan tâm của các cấp ủy Đảng và chính quyền
địa phương nên hàng năm vào những ngày này, UBND xã Thủy An, thị xã Đông Triều
đã tổ chức lễ dâng hương tưởng niệm.
Riêng ngày 8 tháng 2, ngoài phần lễ được tổ chức rất trang
nghiêm còn có phần hội với nhiều hoạt động vui chơi bổ ích và lý thú, đặc biệt
còn có các hình thức múa võ và đánh vật… thể hiện được các hình thức tập luyện
quân sĩ của bà Lê Chân.
Vào ngày lễ hội nhân dân trong vùng và khách thập phương về
đây dâng hương tưởng niệm người nữ anh hùng đã góp phần dựng nên truyền thống bất
khuất của dân tộc Việt Nam và cũng là một người con kiên trung của quê hương
Đông Triều - Quảng Ninh. Đền An Biên (Đền Nữ tướng Lê Chân) còn là nơi Ủy ban
nhân dân xã Thủy An thường xuyên tổ chức các ngày lễ báo công và phát động thi
đua trong nhân dân toàn xã. Ngôi đền đã thực sự trở thành địa điểm giáo dục
truyền thống quý báu của địa phương.
Lễ hội Đền An Biên (Đền Nữ tướng Lê Chân) được tổ chức hàng
năm đã thực sự tạo ra một không gian văn hóa lành mạnh có tính giáo dục cao, là
dịp gắn bó cộng đồng tạo nên sự đoàn kết thống nhất các thành viên trong xã hội
và đặc biệt là tỏ rõ được lòng biết ơn của các thế hệ cháu con đối với người có
công với đất nước.
Hiện nay, Ủy ban nhân dân thị xã Đông Triều đã tiến hành lập
Dự án bảo quản, tu bổ di tích lịch sử văn hóa Đền An Biên (Đền Nữ tướng Lê
Chân), xã Thủy An, thị xã Đông Triều và đã được UBND tỉnh ban hành Quyết định
phê duyệt (tháng 3/2016). Việc bảo quản, tu bổ Đền An Biên (Đền Nữ tướng Lê
Chân) có ý nghĩa rất lớn nhằm tôn vinh người nữ anh hùng đã có công với đất nước,
vừa để giáo dục tinh thần yêu nước, ý chí độc lập tự cường cho các thế hệ mai
sau, đồng thời bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Dự án bảo quản, tu bổ di tích lịch sử văn hóa Đền An Biên (Đền
Nữ tướng Lê Chân) do Công ty TNHH Kiến trúc và Xây dựng Thuần Việt tư vấn lập dự
án, UBND thị xã làm chủ đầu tư với tổng mức đầu tư trên 46 tỷ đồng do huy động
xã hội hóa và các nguồn vốn hợp pháp khác, diện tích lập dự án 24.603m2. Thời
gian thực hiện dự án: Năm 2016 - 2017. Các hạng mục đầu tư bao gồm: Đền chính,
Tượng nữ tướng Lê Chân, Nhà bia liệt sĩ, Bình phong, cổng chính đền, cổng phụ đền,
Nhà Ban quản lý di tích, Nhà sắp lễ, Am hóa vàng, Nhà vệ sinh, Chòi nghỉ, Tường
rào, Lan can đá, Bãi đỗ xe phía Đông Bắc, Sân Lễ hội, Bãi đỗ xe phía Tây Nam.
Dự án bảo quản, tu bổ di tích lịch sử văn hóa Đền An Biên (Đền
Nữ tướng Lê Chân) với hệ thống hạ tầng kỹ thuật đồng bộ sẽ đáp ứng được yêu cầu
phát triển du lịch tín ngưỡng và nhu cầu hành hương của nhân dân, góp phần giữ
gìn, phát huy, giáo dục truyền thống của địa phương cho thế hệ mai sau; thu hút
khách thập phương đến với Đền An Biên (Đền Nữ tướng Lê Chân), góp phần quảng
bá, phát huy các giá trị Đền An Biên (Đền Nữ tướng Lê Chân) gắn với phát triển
du lịch tâm linh và du lịch thắng cảnh ở Đông Triều; hoàn thiện không gian kiến
trúc cảnh quan về bảo tồn và phát huy giá trị di tích Đền An Biên (Đền Nữ tướng
Lê Chân), góp phần phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa du lịch của địa phương.
Bởi vậy sau khi di tích được xếp hạng cấp quốc gia, Ủy ban
nhân dân thị xã Đông Triều kiện toàn lại Ban quản lý di tích nhằm phát huy tốt
nhất giá trị di tích. Ban quản lý di tích gồm đầy đủ các thành phần và đại diện
cho những người cao tuổi am hiểu về lịch sử địa phương để phát huy tốt nhất giá
trị của di tích.
Ngày 09/3/2017, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã
có quyết định số 808/QĐ-BVHTTDL xếp hạng Di tích lịch sử đền An Biên (xã
Thủy An, thị xã Đông Triều) là di tích quốc gia./.