Ngày 15/4/2022, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch đã có quyết định số 891/QĐ-VHTTDL đưa cụm di tích Đền Măng Sơn, Đình Sơn Đông và Đình Sơn Trung (xã Sơn Đông, thị xã Sơn Tây, TP. Hà Nội) vào danh mục di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia.
Đền Măng Sơn được coi là Nam Cung điện. Trong số Ngũ cung ở
quanh khu vực Ba Vì thì những dấu tích như Đền Và, đền Thượng hay đình Tây Đằng
chúng ta đều tìm ra dấu vết vật chất chứng minh sự ra đời ít nhất từ thế kỷ 16,
gắn với giai đoạn phát triển của kinh tế thương mại, tương tư như những viên gạch
vồ tại đền Thượng, gạch, con giống trên bờ nóc, mảng chạm khắc trang trí trong
Đại bái đền Và và đình Tây Đằng, mang dấu ấn đặc trưng của nghệ thuật thế kỷ 16.
Có nhiều khả năng đền Măng Sơn - Nam Cung điện cũng được khởi dựng vào thời
gian này.
Bằng chứng rõ nét nhất tại Đền Măng Sơn là đôi nghê gỗ gắn
trên một cột trụ vuông mang phong cách nghệ thuật thế kỷ 17. Đây không phải là
một di vật tách rời mà là một thành phần kiến trúc quan trọng, được tạo tác để lắp
đặt vào Thượng cung, vị trí thờ tự trung tâm. Bằng chứng này đã khẳng định, ít
nhất từ thế kỷ 17, Đền Măng Sơn đã là một ngôi đền lớn.
Bên cạnh đó, trong sân Đền Măng Sơn còn 01 tấm bia đá Măng
Sơn tự bi ký". Kiểu bia bốn mặt, kích thước khá lớn, tạo tác năm Cảnh Hưng
thứ 7 (1746). Tấm bia thuộc về chùa Măng Sơn nằm ngay phía sau đền.
Ngôi chùa đã bị phá hủy nhưng nội dung tấm bia cho biết Phật
giáo đã có mặt ở đây từ thời Đường. Đến thế kỷ 18 thì chùa được xây dựng quy mô
lớn. Căn cứ vào những dữ liệu trên, có thể cho rằng, thế kỷ 18 nơi đây đã có đền
Măng Sơn phía trước và một lần nữa ta lại thấy một bố cục công trình tín ngưỡng,
tôn giáo điển hình ở làng quê của người Việt với đền phía trước, chùa phía sau
(nơi thờ Thần bản địa phía trước, nơi thờ Phật phía sau).
Ngoài ra, đền Măng Sơn còn lưu giữ một số di vật như sắc
phong, ngai, bài vị, bát hương, hoành phi với niên đại từ đầu thế kỷ 19 đến đầu
thế kỷ 20 cho thấy công trình vẫn tiếp tục được nhân dân quan tâm tu bổ và sử dụng
cho tới tận ngày nay.
Trong kháng chiến chống Pháp, cả khu vực đồi Măng Sơn trở
thành nơi đóng quân của quân đội Pháp; dấu tích còn lại là một lô cốt hiện vẫn
còn ngay sau đền... Sau khi hòa bình lập lại, chính quyền địa phương và nhân
dân từng bước tu sửa ngôi đền vào các năm 1987, 2006 và gần đây nhất là năm
2014.
Hai ngôi đình Sơn Đông và đình Sơn Trung cũng được xây dựng
cùng thời với đền Măng Sơn, hình một cụm công trình tín ngưỡng chung của địa
phương. Kiến trúc hiện nay của hai ngôi đình mang phong cách nghệ thuật cuối thời
Nguyễn.
Trên thượng lương gian giữa tòa Đại bái đình Sơn Đông còn khắc
dòng chữ Hán tự "Hoàng triều Bảo Đại Canh Ngọ, ngũ niên, thập nhất nguyệt,
thập thất nhật, thìn thời, Sơn Đông xã, thụ trụ thượng lương đại cát" (Giờ
Thìn, ngày 17 tháng 11 năm Canh Ngọ, Bảo Đại thứ 5 (năm 1930), xã Sơn Đông dựng
thượng lương.
Theo ghi chép này, năm 1930, đình Sơn Đông đã được trùng tu
lớn. Các bộ vì kèo Tòa Đại bái đều mang kết cấu kiến trúc và hoa văn trang trí với
phong cách nghệ thuật nửa đầu thế kỷ 20. Hai ngôi đình cũng đã được tu sửa những
năm 2006, 2009.
Ngôi đền tọa lạc trên đồi Măng, tòa Đại bái hướng Đông Nam có
vị trí cảnh quan khá rộng, thoáng. Xung quanh đền nguyên xưa là rừng cây, xa
khu dân cư càng cho thấy sự thoáng đãng của nơi chọn đặt di tích. Tương truyền,
đồi Măng mang hình Linh Quy với bốn chân là bốn giếng ngọc. Đây là đất phong thủy
vững bền nên người dân đã hưng công xây dựng đền trên mu rùa.
Vị trí dựng đền ở ngoài làng, xa khu dân cư, lại gần các
cánh rừng, phần nào giống với cách chọn đặt vị trí dựng đền tại di tích Đền Và
(Đông Cung điện) gần đó. Không gian dựng đền gợi cho ta một ý niệm thủa xa xưa
về việc chọn đất sinh cư lập nghiệp của cư dân Việt Cổ với làng bản cư trú và
những cánh rừng gần đó là nơi cung cấp nguồn sống cho dân làng trong thời kỳ
kinh tế sản xuất theo phương thức săn bắn, hái lượm.
Những tập quán, nghi thức và cả lễ vật dâng cúng trong lễ hội
đền Măng Sơn còn lại tới ngày nay cũng phần nào phản ánh về lối sống xa xưa đó.
Sân và mặt đứng hướng Đông Nam Tiền tế Đền Măng Sơn
Đền Măng Sơn, xã Sơn Đông, thị xã Sơn Tây, TP. Hà Nội
Hữu vu đền Măng Sơn
Bài trí không gian thờ tự tại gian giữa tòa Đại bái Đền Măng
Sơn
Tượng Nghê chầu tại Hậu cung
Tấm bia Măng Sơn
tự bi ký, niên đại Cảnh Hưng thứ 7 (1746).
Ban thờ Tam Thánh Tản Viên ở Hậu Cung
Bố cục tổng thể của Đền Măng Sơn gồm nhiều hạng mục dọc theo
trục Đông Nam - Tây Bắc. Mở đầu cụm kiến trúc là Nghi môn bề thế kiểu tứ trụ,
được dựng gần dưới chân đồi.
Qua Nghi môn là con đường lát gạch dẫn lên sân trước đền ở một
cấp nền cao hơn. Sân đền hiện được lát gạch bát vuông to.
Đăng đối hai bên sân là hay dãy Tả - Hữu vu (mỗi dãy 5
gian). Phía cuối sân là ngôi Đền Măng Sơn với bố cục mặt bằng tổng thể kiểu Tiền
nhất Hậu đinh, gồm tòa Tiền tế (3 gian 2 chái), tòa Đại bái (3 gian 2 chái) và
hậu cung chuôi vồ 2 gian phía sau.
Toàn bộ ngôi đền dựng trên cấp nền cao hơn sân trước 1,2m.
Bên phải Đại bái là nhà bia, bên trong có tấm bia Măng Sơn tự bi ký niên đại Cảnh
Hưng thứ 7 (1746). Phía trước nhà bia và ở cấp nền thấp hơn là động thờ ông Hổ.
Phía sau Tả Vu còn có nhà khách, nhà kho…
Những hạng mục kiên trúc của Đền Măng Sơn mang phong cách
xây dựng trong bố cục kiến trúc đình đền truyền thống Việt. Những tòa nhà không
chú trọng về chiều cao mà có quy mô rộng lớn. Những ngôi nhà được xây dựng cao
dần theo triền dốc, khiến tổng thể ngôi đền có dáng vẻ uy nghi, bề thế. Xung
quanh đền, ngoài các công trình kiến trúc còn có nhiều cây lưu niên và cây cảnh
như mai, đào, mít, thông… khiến cảnh quan di tích càng uy nghiêm, linh thiêng.
Đô Tình
Nguồn: Cổng thông tin điện tử Bộ VH-TT-DL