Thời 12 sứ quân, tướng Nguyễn Phúc đã chiêu binh, xây dựng lực lượng, sắm sửa vũ khí thành lập một căn cứ riêng ở Khả Khu, xung quanh làng đào hào đắp luỹ, lập lên bốn điếm canh giữ bốn góc làng. Từ đó Nguyễn Phúc có đủ điều kiện, uy quyền để cát cứ một vùng riêng, một giang san riêng giữa vùng đất Đằng Châu (tỉnh Thái Bình). Sau ông hàng phục Đinh Bộ Lĩnh, được phong tướng.
Theo các tài liệu khảo cứu, Khả Khu (nay là làng Khả, xã
Duyên Hải, huyện Hưng Hà) xưa là “bến độ” của nhóm người Việt Mường từ vùng núi
cao xuống đồng bằng phì nhiêu.
Ngày xưa Khả Khu bao gồm cả hai làng Khả Lậu (Duyên Hải) và
Khả Lang (Quỳnh Châu, Quỳnh Phụ), theo các ghi chép thì Khả Khu là vùng đất bồi
tụ sau Công nguyên, thế đất có nhiều gò đống. Đến đời Gia Long, triều Nguyễn
(cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX) chia thành hai làng Khả Lậu thuộc xã Hạ
Bái, tổng Thượng Bái, huyện Diên Hà và Khả Lang (Khả Sang) thuộc huyện Quỳnh
Côi.
Thế kỷ thứ VII, là “thủ phủ” của nhà Đường và thế kỷ X, thời
điểm loạn 12 sứ quân, danh tướng Nguyễn Phúc người lộ Hải Đông đã chọn Khả Khu
dựng đại bản doanh chống lại các thế lực cát cứ khác. Khi được vua Đinh Bộ Lĩnh
thu phục, Nguyễn Phúc trở thành thuộc tướng trung thành có công lao to lớn giúp
vua Đinh Bộ Lĩnh thu non sông về một mối…
Theo bản “Khả Khu thần tích Đinh triều” do Thượng thư Bộ lễ
Nguyễn Bính soạn năm 1752: “Một đêm Phúc Công mơ thấy cụ già đầu râu tóc bạc,
áo quần chỉnh tề đi thẳng vào đồn sở, tướng Nguyễn Phúc liền hỏi: “Cụ già đâu tới
mà đường đột vào đồn trại?”, cụ già cười ngâm mấy câu thơ:
“Lai nhật Đinh Điền đáo nhĩ gia/Đinh hoàng chính vị thống
sơn hà/Quân thần nhất hội thiên niên nghiệp/Thiên dĩ định ra, địa định ra”.
Tạm dịch: “Một ngày gần đây Đinh Điền tới thăm, đây là vị tướng
giỏi của nhà Đinh nhằm việc thống nhất sơn hà. Vua tôi một lòng, một dạ dựng
nghiệp lớn, nhất định sẽ thống nhất được thiên hạ”.
Thơ vừa ngâm xong, tiếng thơ còn vương vấn thì bỗng dưng trời
nổi giông gió mịt mùng, bụi cuốn mù trời, không thấy cụ già đâu nữa. Đúng lúc,
Nguyễn Phúc tỉnh mộng, nhớ lời thơ cụ già ngâm ông hiểu đó là ý trời tạo tác để
ông gặp được tướng tài của vua Đinh Bộ Lĩnh (Đinh Tiên Hoàng).
Trời vừa sáng, bỗng có một đạo quân đi như gió cuốn, binh
khí ngút trời tiến thẳng vào đồn trú, Phúc Công cho rằng đó là quân của sứ quân
Trần Lãm (Trần Minh Công) đến đánh liền cầm thương nhảy lên ngựa chiến xông thẳng
vào đội quân mà thét rằng: “Các ngươi xâm phạm bờ cõi của ta, không biết tự thủ
bờ cõi lại dám cậy mạnh, nhanh mà chạy đi kẻo hối không kịp”.
Vừa thét, Phúc Công vừa vung thương chém mạnh vào đội quân,
quân lính chạy tán loạn. Bỗng một người cưỡi tuấn mã, áo choàng màu vàng phi tới
trước mặt Phúc Công và nói: Ta là Đinh Điền, tướng của vua Đinh Bộ Lĩnh, vâng lệnh
chủ tướng, ta đến để triệu ngài cùng hợp lực dẹp loạn 12 sứ quân, thống lĩnh
sơn hà, chung hưởng thái bình.
Phúc Công nghe vậy liền nghĩ tới giấc mộng đêm qua bèn vứt
thương xuống ngựa, vui vẻ đón Đinh Điền vào đồn sở, sai quân sĩ mở tiệc chiêu
đãi ba quân. Hai tướng bàn bạc với nhau kế hoạch dẹp cát cứ, Phúc Công liền soạn
hịch chiêu mộ thêm 3 nghìn quân. Lúc đó Khả Khu (nay là Khả Lậu) có 23 binh sĩ
đi theo nghĩa quân.
Nhận chuyển giao sứ quân của Trần Lãm, vua Đinh Bộ Lĩnh gặp
sự kháng cự của Nguyễn Phúc ở Khả Khu, ông liền cử Đinh Điền đến đại bản doanh
của Nguyễn Phúc để thuyết phục ông về với sứ quân Trần Lãm.
Trước đó, sứ quân Trần Lãm đã từng giao chiến với quân của
Nguyễn Phúc để mở rộng địa bàn hoạt động và hùng cứ vùng châu thổ sông Hồng nhiều
lần nhưng không thắng được Nguyễn Phúc. Với mục đích thống nhất sơn hà nên khi
vua Đinh Bộ Lĩnh nắm trong tay binh quyền của một sứ quân, ông rất mềm dẻo
trong quan hệ ngoại giao và ông đã thu phục thành công mà không tốn một “mũi
tên, hòn đạn” nào để Nguyễn Phúc về với sứ quân của ông.
Các sử gia cho rằng, đây là kế sách hay của vua Đinh Bộ Lĩnh không phải cần nhiều đến binh
đao. Nguyễn Phúc ưng thuận về với sứ quân Trần Lãm liền được vua Đinh Bộ Lĩnh
giao trọng trách chỉ huy trung quân, dẫn đạo binh hùng, tướng giỏi đi đánh Kiều
Công Hãn, chém được đầu tướng, thu quân đại thắng.
Gần binh đồn trú của Nguyễn Phúc còn một số binh đồn khác nữa
như cửa Triệu, Kiều Kinh, cửa Chìa (nay thuộc xã Điệp Nông, huyện Hưng Hà) của
4 anh em Trương Lương Lùi, khi biết Nguyễn Phúc đi theo sứ quân Trần Lãm cũng
thuận mà hạ giáo mác đi theo… Theo các nguồn khảo luận, năm 966, hoàng thành Cổ
Loa rối loạn, nội thành đã bị quân của Kiều Công Hãn và quân của Dương Huy chiếm
lĩnh trở thành hai lực lượng sẵn sàng giành quyền lực với “vua” Ngô Xương Xí.
Được hai cựu thần trung tín là Đỗ Cảnh Thạc và Phạm Bạch Hổ tôn lên làm vua
nhưng Ngô Xương Xí không làm tròn bổn phận một vị quân vương lại để vương triều
rối ren khiến nhiều hào kiệt tự ý chiêu binh lập vùng cát cứ, trong đó có thân
vương Ngô Nhật Khánh cất quân từ Đằng Lâm kéo về Cổ Loa, trở thành lực lượng thứ
tư trong hoàng thành.
Thấy tình hình triều chính suy vi, tướng Đỗ Cảnh Thạc ngỏ ý
muốn liên kết với Kiều Công Tiễn hoặc Dương Duy liền bị tướng Phạm Bạch Hổ nghi
ngờ độ tin cậy. Tướng Phạm Bạch Hổ bèn rút quân bản bộ trở lại Đằng Châu. Hai
tướng trụ cột triều chính, chỗ dựa vững chắc của vua Ngô Xương Xí giờ đây “đường
ai nấy đi” tạo nên khoảng trống trong triều Ngô vương.
Về phía vua Ngô Xương Xí, ông cũng cảm nhận được sự cô độc
ngay giữa quần thần trong triều và “ngờ ngợ” sự hiểm nguy đến tính mạng của
mình nên cũng bỏ kinh thành mà chạy về Bình Kiều, châu Ái (nay là Thanh Hóa).
Kinh thành không có vua như nhà không chủ, nạn cướp bóc, giết chóc xảy ra liên
miên mà triều đình làm ngơ.
Các sứ quân cát cứ tự giao chiến giành quyền kiểm soát khiến
kinh thành đầy máu lửa. Tướng Đỗ Cảnh Thạc ngậm ngùi cho triều đại nhà Ngô nên
quyết định bỏ Cổ Loa về trấn giữ thành Đỗ Động nơi lúc đương thời Ngô vương Ngô
Quyền đã sai ông xây dựng mà chẳng “màng” tới việc phải chống trả nhiều lực lượng
cùng xâu xé kinh đô.
Quốc gia “Tĩnh Hải Quân” của Ngô Vương chìm trong loạn ly,
kinh đô bị xé nhỏ từng mảnh, dòng Nhị Hà cắt ra từng đoạn. Đến mùa hè năm 966,
một mùa hè với những ngày nóng bức nhất của cuộc nội chiến thì không còn ai đủ
sức chém giết những sứ quân khác, 12 sứ quân trụ lại mà phần lớn chiếm cứ dọc
theo hạ nguồn sông Hồng và sông Đuống.
Lúc này, tướng công Trần Lãm (sứ quân Bố Hải Khẩu) đã già yếu
bèn chuyển giao quyền lực cho người con nuôi vua Đinh Bộ Lĩnh. Vua Đinh Bộ Lĩnh tìm cách
“xóa sổ” những sứ quân khác nhằm thống lĩnh thiên hạ. Sử cũ chép: vua Đinh Bộ Lĩnh sinh năm 924 tại làng Đại Hữu
thuộc huyện (động) Hoa Lư. Cha ông là Đinh Công Trứ là bộ tướng của Dương Diên
Nghệ. Ông Trứ được giao trọng trách “Thứ sử Châu Hoan” (nay là Nghệ An), đem
theo vợ họ Đàm cùng hai con nhỏ. Lúc đó vua Đinh Bộ Lĩnh mới 7 tuổi.
Không may, Đinh Công Trứ đoản mệnh, bà Trứ đành đưa các con
về quê ngoại Gia Viễn. Vua Đinh Bộ Lĩnh được sứ quân Trần Lãm (bạn của cha
mình) nhận về làm con nuôi ở Bố Hải Khẩu. Sau khi dẹp loạn 12 sứ quân, năm 968,
vua Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, lập
triều nhà Đinh, kinh đô đóng tại Hoa Lư, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, chia nước
thành 10 đạo, mỗi đạo được chia thành quận, huyện, xã tương đương với các đơn vị
quân sự (quân, lữ, tốt). Sử cũ chép: Vua Đinh Tiên Hoàng mở tiệc ăn mừng, khao
thưởng ba quân, gia phong tướng sĩ, chức vụ bề bậc theo công trạng.
Nguyễn Phúc có công lớn được phong Đại vương. Trong đình Khả
còn bức cuốn thư chạm nổi chữ vàng “Vạn thắng Vương tá mệnh thập nhị sứ quân,
cao trường miếu mạo hương đại tại nhân tâm”.
Tương truyền, sau khi vua Đinh Bộ Lĩnh mất, nội triều rối
ren, Nguyễn Phúc xin về nghỉ trí sĩ, dựng tư dinh ở Khả Khu dưỡng nhàn. Khi ông
mất, triều đình tiếc thương phong duệ hiệu: Hoàng Phúc hộ quốc Đại vương. Chuẩn
y cho khu Hạ bang (làng Khả) phụng thờ, chuẩn y ngày lệ và hình thức cấm kỵ
không dùng chữ Phúc mà dùng chữ “Phước” thay cho chữ “Phúc”. Cấm mặc áo vàng kể
cả khi hành lễ. Không được dùng chữ “Khoan” (tên Cha) và chữ Tuyết (tên Mẹ) của
ông. Lệ mừng công ngày mồng mười tháng hai và giỗ trận ngày mồng mười tháng mười
(âm lịch). Ngày lễ có mổ trâu đen, lợn đen, ca hát 3 ngày.