Sự tích Thánh Gióng, có nhiều đoạn tương đồng với chuyện kể ở Phù Đổng - Sóc Sơn, nhưng có điểm khác biệt là Thánh Gióng có thêm chiến công diệt thủy quái cứu mẹ, bảo vệ bình yên cho dân làng.
Đền Đông Bộ Đầu (xưa là làng Dấp) thuộc xã Thống Nhất,
huyện Thường Tín, Tp Hà Nội thờ thần hiệu là “Đổng Sóc Thiên Vương Huyền Thiên
Đại Thánh báo ân Mẹ”. Sự tích Thánh Gióng, có nhiều đoạn tương đồng với chuyện
kể ở Phù Đổng - Sóc Sơn, nhưng có điểm khác biệt là Thánh Gióng có thêm chiến
công diệt thủy quái cứu mẹ, bảo vệ bình yên cho dân làng…
Bảng tóm tắt bộ Thần tích thờ Phù Đổng Thiên Vương.
Sử quan triều Nguyễn soạn sách Đại Nam nhất thống chí xếp đền
Đông Bộ Đầu là một trong số 36 đền miếu cổ tích của tỉnh Hà Tây (cũ). Thế kỷ
17, sách Công dư Tiệp ký của tác giả Vũ Phương Đề, Hoàng Việt địa dư chí, Nam
Việt địa chỉ dư chí chép Thành hoàng thờ ở đền Đông Bộ Đầu là “Sự tích Đổng Sóc
Thiên Vương Huyền Thiên Đại Thánh báo ân mẹBùi Thị Dung Quốc Mẫu Văn Lang thời
Hùng Vương thứ 6 là bậc thánh nhân của mọi thời đại”.
Chuyện kể rằng: Thời Hùng Vương sông Hồng xuất hiện nhiều
thuồng luồng chuyên ăn thịt người, ngày kia, có bà mẹ ở làng ven sông ra bến đò
Dấp gánh nước thì đột nhiên hai con thuồng luồng lao tới cuốn bà ra xa bờ. Bà bị
con thuồng luồng cái nuốt dần vào bụng, mới ngẩng mặt lên trời ca thán: “Trời
ơi! Người ta sinh con mong để cậy nhờ, còn tôi có con mà cũng như không thế
này!”.
Dứt lời, bỗng có vị thần khổng lồ trên mây cao xanh sà xuống,
chàng căm giật đứng choại chân sang bên bờ sông, lưng gập xuống, đưa hai tay
khoắng nước từ ngã ba Bạch Hạc đến ngã ba Tuần Vường.
Chàng trai đã kịp tóm cổ nó mang lên bờ, vuốt ngược bụng con
thuồng luồng cái lấy xác mẹ ra. Sau đó, chàng đưa cả hai con thủy quái xuống
lòng bàn chân nhấn sâu xuống bùn đen. Chàng táng mẹ vào lòng bàn tay trái để “mẫu
bất ly thân” hóa thành ngôi bảo tháp, xong đâu đấy, chàng bước lên bãi ven sông
rồi bay về trời. Bến sông làng Dấp để lại ba dấu chân lõm sâu xuống đất.
Chỗ vết chân cuối chàng “xung thiên” hóa dân lập đền chính,
còn hai vết chân kia dân lập miếu thờ. Làng Dấp có tên gọi là Bộ Đầu (nghĩa là
bước chân) từ đấy…
Cổng Khu di tích Đông Bộ Đầu đang hoàn thiện.
Thời Thánh tổ Triết vương Trịnh Tùng (1570–1623) đem quân đi
đánh nhà Mạc, khi thuyền qua đền Bộ Đầu, không rõ vì lý do gì thuyền bị mắc kẹt
quay ngang.
Thăm dò hỏi dân địa phương Chúa biết có đền thờ Mẫu bà Bùi
Thị Dung và Đổng Sóc Thiên Vương. Trịnh Tùng lên khẩn xin thần linh phù trợ để
đánh thắng giặc, quả nhiên về sau dẹp loạn xong một cách thần tốc và do mải việc
nước nên quên lời hứa xây dựng đền.
Vào một buổi trưa, trong giấc chiêm bao Trịnh Tùng mộng thấy
một vị thần khổng lồ có Bát bộ Kim Cương theo cùng nói: “Nhà ngươi đã sai lời hứa”.
Tỉnh mộng Chúa nhớ bèn sai thợ xây dựng đền, cho tạc một pho tượng thánh cao đến
21 thước ta (8,4m).
Sách Công dư tiệp ký chép tạc tượng thần cao 3 trượng 6 thước
(14,4m). Kiến trúc gồm nhà tiền tế 5 gian, gian giữa chồng diêm 8 mái để chuông
đồng; hậu cung 2 tầng, tầng trên ba bề ghép kính, dân chúng đi trên đê sông Hồng
đều nhìn thấy mặt Thiên Vương nhô lên ở tầng lầu.
Do hậu cung hư nặng, tượng thánh phải tạc đắp lại so với tượng
trước thấp đi nhiều, bỏ tầng trên hậu cung và xây kín các mặt. Thật tiếc! Hiện
nay, trên mái đền vẫn còn nhiều phiến gỗ ván “mạn thuyền” niên đại 1575 (do thiếu
mà Chúa Trịnh phải cho phá lấy gỗ từ các chiến hạm thuyền đậu ở ngoài bến Dấp
cung tiến).
Đền Đông Bộ Đầu thờ Phù Đổng Thiên Vương báo ân mẹ.
Ngày 6/2/1979, đền Đông Bộ Đầu được UBND tỉnh Hà Tây xếp hạng
là Di tích lịch sử văn hóa. Năm 2011 được UNESCO công nhận một trong 8 nơi thờ
Phù Đổng Thiên Vương là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Thần
phả thờ Đức Đổng Sóc Thiên Vương có điểm khác là so với truyền thuyết Thánh
Gióng quen thuộc:
Thần có họ Đổng, có công giỏi trị thủy cứu dân, mẹ là Bùi Thị
Dung xuất xứ rõ ràng, Mẹ Thần không phải là bà già xấu xí luống tuổi như huyền
thoại dân gian lưu kể mà là người con gái có nhan sắc “Khi cô tròn 16 tuổi,
gương mặt hồng tươi, mắt tựa ánh trăng rằm hồ thu, nhan sắc tuyệt thế.
Lại có điều lạ trên đầu nàng luôn hiện mật vầng hào quang
ngũ sắc lãng đãng như cánh chim loan. Dù nàng đi đâu, đi chơi hay đi lấy củi
hay làm đồng thì vầng hòa quang đó vẫn bay ở trên đầu, tứ bề muôn đóa huy hoàng
quấn quýt, một vùng gió biếc hương đư ngan ngát”.
Mẹ Thần sau thành vợ chính thất của Đại quan làng họ Đổng
Gia vùng Đại Mạn Châu danh giá. Nhưng do số phận, chỉ một năm chồng bà qua đời,
bà vào tu tại chùa Hoàng Nham.
Một buổi, bà đi dạo trên một quả đồi, thấy phiến đá sạch, bà
nằm nghỉ, tự nhiên thấy một đóa sen hồng rơi xuống bụng. Sau ba mốt tháng, đẻ
ra một bọc hình đóa sen hồng còn phong nhụy, lúc nào cũng thoang thoảng hương
đưa và có những dải mây cầu vồng quấn quýt, 7 tháng sau bông sen còn chưa nở.
Chỉ khi vua Hùng đưa
về cung ngày đêm chăm sóc, dần dần đóa sen mới nở hình hài nhi. Hài nhi đó
chính là vị anh hùng lẫm liệt mang tên Thánh Gióng mà dân gian vẫn nhắc tới với
sự thụ thai kỳ lạ mang tên “vết chân to”…
Thánh Gióng của thần phả này là một anh hùng trị thủy, “Đây
là một điều nghe hết sức hợp lý và đối với những kẻ hậu sinh là vô cùng lý
thú”, “Một trong những hiểm họa luôn rình rập đất nước ta đó là lụt lội.
Cho đến giờ, một năm chúng ta phải đối mặt với không biết
bao nhiêu trận bão lũ, nhất là trong thời kỳ biến đổi khí hậu này”. Bộ thần phả
như một thiên anh hùng ca hiếm hoi của Việt Nam diễn lại trận đánh và cuộc đời
vị Thiên vương lẫm liệt: “Thiên thần lập tức xông thẳng tới nơi giặc ở Động
Xích Quỉ bên núi Ngũ Lĩnh.
Tướng giặc Đằng Xà bấy giờ đang giữa trăm quân hầu cận,
trông thấy ngài hồn bay phách lạc. Bọn tả hữu vội tẩu tán. Thần tướng bắt sống
được tướng giặc Đằng Xà bên chân núi Ngũ Lĩnh, chém nó thành ba đoạn. Tàn quân
giặc Xích Quỉ bị đánh tan tác như tro bụi.
Thần tướng trở gót một mạch về triều, tới trước mặt vua nói:
Ơn bú mớm thật là sâu nặng, Xin nhà vua hãy thay ta chăm sóc mẹ. Dứt lời thiên
thần cầm đao long vút thẳng lên trời”. Lòng hiếu với mẹ của ông Gióng không ngừng
ở đó, khi ông đã về trời, nhận được tin mẹ mình đang bị thuồng luồng ăn thịt,
ông bèn giáng thế cứu mẹ mình. Đoạn hùng ca Thánh Gióng cứu mẹ làm thỏa lòng
người Việt về tâm thức cao đẹp của dân tộc.
Bát Bộ Kim Cương cùng thờ trong đền của đại thánh Phủ Đổng Thiên Vương.
Tượng cổ Đức Ông ở đền Đông Bộ Đầu.
Tượng cổ ở đền Đông Bộ Đầu.
Ngôi nghè ngoài bãi sông thờ thân mẫu đức Thánh Gióng, đầu
thế kỷ X, được chuyển vào phía trong đê để việc phụng thờ được chu đáo hơn. Từ
mặt đê chính theo con đường thẳng, mịn đất phù sa bồi, dẫn ta vào đền.
Giữa một vùng đất xanh màu cây lá, nổi lên rõ nhất là cây gạo
có đến hàng trăm tuổi, ngọn vươn cao chừng 40 đến 50 mét, cành lên mốc trắng,
rậm rì những bụi tầm gửi treo lơ lửng trời.
Trước đây vườn đền có tên là Ổ Gà. Tên ấy là do một lần quạ
tha gà chẳng may để mồi rơi xuống. Con gà thoát chết lúc cúc kiếm ăn. Lớn lên
gà sinh con đẻ cái thành một họ nhà gà mấy chục con.
Xa xưa bãi Ổ Gà chỉ có quán thờ lộ thiên bên một vũng nhỏ
hình tựa vết chân người khổng lồ. Ngôi đền làng đại tu năm Bính Ngọ 1906, hiện
còn lưu giữ 02 đạo sắc thời Khải Định, Duy Tân. Đền thờ “Tiền Phật, hậu Thánh”:
5 gian nhà tiền tế rộng rãi xây theo hình chữ nhật, trông về hướng bắc, nóc tạc
“Phù Đổng linh từ”.
Trong nhà có chạm đại tự chữ Hán “Thiên nhân” (người trời),
nổi bật nhất là bức hoành phi sơn son thiếp vàng “xung thiên hộ quốc” (bay thẳng
lên trời giúp nước). Ở gian giữa ngôi nhà tiền tế vút lên 4 cột đá lớn cao tầm
6 đến 7 mét, đường kính 0.3 mét, đỡ lấy mái.
Cột là khối đá nguyên, thân chạm nổi các mẫu hoa văn thời
Nguyễn. Khi dựng cột làng phải bắc giáo dùng dây treo cột kéo người lên. Sau là
hậu cung, vào đó ta gặp một bức tượng to cao đứng uy nghi choán hết cả gian
nhà, tượng tạc thế dứng thẳng cao 5,76m, bờ vai rộng 1,5m (đây là pho tượng cổ
lớn nhất trong di sản văn hóa dân tộc còn sót lại và to nhất vùng Đông Nam Á).
Tượng thần: Đầu ngài đội mũ bách tinh chói lọi, thân khoác
long bào kim giáp có mặt hổ phù ở đai lưng (phía trước lưỡng long chầu
mặt nguyệt, giữa bụng mặt rồng to), mặt ngài đỏ như mặt trời, mắt sáng
như dao; một chân ngài đặt giữa đồng, chân kia giẫm chết đôi giao long bên bờ
sông; ngài nâng mẹ lên lòng bàn tay trái, bỗng nhiên thi thể mẹ hóa thành ngôi
bảo tháp lớn ngay trong lòng bàn tay ngài.
Bức tượng thể hiện trạng thái giận dữ của Thiên Vương đối với
thủy quái hại mẹ mình và cũng thể hiện tâm trạng nuối tiếc khi không kịp cứu mẹ.
Hậu cung: Trưng bày 8 tượng kim cương độc đáo, chạm
mũ áo cao từ 2,9 đến 3,1m, mỗi vị một vẻ oai phong lẫm liệt (Thánh
trừ tai kim cương, Trử độc thần kim cương, Hoàng trùng cầu kim cương,
Bạch tinh thuỷ kim cương, Xích thanh hoả kim cương, Đinh trừ tai kim
cương, Tử hiền câu kim cương và Đạo thần thông kim cương) – 8 vị kim
cương có nhiêm vụ diệt ác, phục thiện, bảo vệ điều lành cho con
người.
Tượng Phù Đổng Thiên Vương cổ nhất Đông Nam Á cao 5,76m.
Thân Phù Đổng khoác Long bào kim giáp vân mây muôn sắc.
Cảm kích trước công lao to lớn của Thánh Gióng, hằng năm dân
làng mở hội tế thần vào ngày 8 tháng Giêng (hội chính) và ngày 8 tháng 9 âm
(ngày hóa). Tổ chức lễ hội chủ yếu do 11 dòng họ của thôn đứng ra gánh vác, từ
mùng 4-6/Giêng, các dòng họ nhộn nhịp làm cỗ chay dâng Thánh: bánh dày, bánh mật,
bánh gai, bánh bột lọc, bánh ít, su sê, bánh uôi, chè kho, bỏng…(làm từ đường
trắng, bột gạo nếp và đậu xanh đem ngâm giã thành bột mịn) nhiều màu sắc, cùng
xôi, rượu, thịt, hoa quả, trầu cau và đón khách ở phương xa.
Mùng 7, các dòng họ cùng nhân dân dâng lễ, sáng mùng 8
(chính hội) diễn ra long trọng tại cửa đền với sự tham dự của hàng vạn người
dân. Lễ hội có nhiều trò chơi dân gian: Bơi thuyền bắt vịt, thi bơi trải trên
sông Hồng và độc đáo nhất vẫn là trò múa gậy chầu Thánh.
Gậy múa là đoạn tre dài 2,5m – 2,8m. Tay cầm ôm nửa vòng
thân gậy để lỡ đối phương có đánh róc mía gậy trượt trên mặt thân tre không vào
ngón tay người đỡ. Từng cặp chàng trai đầu quấn khăn rìu, eo thắt dải đỏ, chân
buộc xà cạp ra đứng chống gậy trước cửa đền.
Khi có hiệu lệnh họ cùng dùng chân đá gậy tung lên, tay đón
gậy múa đi ra, rồi lại múa vào. Ba lần múa vòng tròn chào thần, chào người xem.
Sau đó thao diễn các bài cơ bản, người múa càng đông càng tốt, cây gậy xoắn tít
trên tay.
Các bài: Múa vớt (bước lên ba bước, lùi ba bước, tay gậy đưa
hớt trước mặt); múa ráo đất (tay cầm gậy giơ phía trước đưa vào nách quay người
lại phía sau); múa vắt khăn (đưa gậy xuống ba lần rồi chuyển gậy ra sau gáy,
vào thế đưa gậy ra đỡ); múa quét chợ (đưa gậy lùa qua đầu, đánh gậy quét qua
chân.
Đối phương nhận hiệu lệnh báo đánh phải nhảy lên) và múa đánh
lá lật (múa tròn gậy trên đầu, đánh gậy xuống, quay 180 độ đánh thuận, đánh nghịch
từ trái sang phải, đây là bài khó nhất).
Thao diễn xong các tay gậy thăm thử tài trí của nhau để vào
đấu. Ban Tổ chức có quy chế: Cấm chọc táo (chọc ngược gậy), quét chợ phải làm
hiệu gậy báo trước, cấm bất thình lình đánh bổ thượng; người thua là do đỡ
không kín, không phán đoán nổi ý đồ của đối phương bị gây dính người hoặc đỡ
không chắc bị rơi gậy khỏi tay.
Tay gậy nào thắng liền ba hiệp sẽ đứng giữa chủ gậy, thắng
hai hiệp coi là được cuộc; người giữ gậy hết buổi hội không ai phá nổi là người
giật giải và được làng tôn là chủ soái múa gậy năm ấy. Múa gậy là một trò
diễn hay, độc đáo, hấp dẫn có truyền thống lâu đời, giữ vai trò chủ
đạo của ngày hội và nêu cao tinh thần thượng võ của người dân nơi
đây.
Thời kỳ chống thực dân Pháp, quân dân ta đã lập một chiến
công oanh liệt ngay tại đền. Đêm đầu hè năm 1947, một đội lính Âu Phi của Pháp
hành quân từ Hà Nội theo đê sông Hồng về phía nam lấy đền làm điểm trú quân.
Nhận được tin của trinh sát, một đơn vị bộ đội đã hành quân
trong đêm mưa kịp đến tập kích. Các anh cởi trần, buộc khăn bông trắng ở cổ
tay, cầm dao và mã tấu đột nhập vào diệt ngay tên lính gác. Sau đó, vào nhà lần
từng thằng đang ngủ diệt tiếp.
Khi lộ, bộ đội ta rút êm ra. Sớm hôm sau dân chúng cho biết
có tới 35 bao bì đựng xác giặc chuyển về Hà Nội. Kẻ thù bị đòn kinh hoàng không
dám dừng quân lâu ở đền Bộ Đầu. Du khách về nơi đây, giữa cái mới, cái đẹp của
ngày hôm nay luôn cảm thấy linh khí cương liệt của người xưa trên mảnh đất địa
linh lịch sử này.
Ths. Phùng Quang Trung (Cục Nghệ thuật biểu diễn)
Bảo tàng Lịch sử quốc gia
Ths Nguyễn Thy Ngà đăng tải