Đình An Bài nằm trên địa bàn thị trấn An Bài, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Theo Thần tích, từ thời Hùng Duệ Vương, làng An Bài đã có miếu thờ ba vị Thành hoàng họ Đào là Đào Hùng, Đào Dũng, Đào Lược thời Hùng Duệ Vương, sau này miếu được xây dựng lại thành đình làng An Bài.
Hiện nay, bia đá không còn nên không có căn cứ xác định niên
đại xây dựng gốc của ngôi đình, thờ phụng tam vị Thành hoàng Đào Hùng, Đào
Dũng, Đào Lược, đã tham gia cùng Tản Viên Sơn Thánh đánh giặc và phối thờ các vị
Tiến sĩ người làng An Bài.
Bia "Bản huyện tiên hiền duệ hiệu bi ký", hiện
đang lưu giữ tại đình Đông Linh (thị trấn An Bài, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái
Bình) chép làng An Bài có 07 vị Tiến sĩ. Sách "Trạng Nghè Thái Bình",
tác giả Phạm Hóa, Vũ Mạnh Quang, Nguyễn Thanh, do Sở Văn hóa và Thông tin Thái
Bình xuất bản năm 1989, cũng theo đó xác định, làng An Bài có 7 vị Tiến sĩ.
Năm 1951, đình An Bài bị giặc Pháp cho xe tăng húc đổ, lấy vật
liệu làm đường và xây dựng lô cốt. Năm 1955 - 1956, nhân dân trong làng xây dựng
lại Hậu cung để thờ ba vị Thành hoàng và các vị Tiến sĩ. Năm 1995, nhân dân
trong làng đóng góp công đức, sang huyện Vĩnh Bảo (thành phố Hải Phòng) mua được
một ngôi từ đường cổ đem về dựng trước Hậu cung thành tòa Tiền tế.
Năm 2001, dân làng xây dựng lại cổng và hệ thống tường bao
xung quanh đình. Đây là nơi dân làng thực hành tín ngưỡng tâm linh và tỏ lòng
ngưỡng mộ, thành kính với những vị đại khoa. Đình đã bị phá hủy trong kháng chiến
chống Pháp và được dân làng từng bước phục hồi trên nền móng cũ.
Đình có diện tích 1.230,3m2. quay về hướng Tây Bắc, gồm các
hạng mục công trình sau: Cổng đình, sân đình, tòa Tiền tế, tòa Hậu Cung. Tiền tế
gồm 05 gian (13,95m x 6,3m), xây kiểu hồi văn đắp đấu, mái chảy lợp ngói mũi, bờ
nóc đắp ngạc long ngậm đại bờ, chính giữa đắp mặt nhật.
Hai gian hồi xây tường, làm giả cửa sổ chữ Thọ; ba gian giữa
lắp cánh cửa khay, chân quay, bốn cánh. Lòng tòa Tiền tế có 4 hàng chân cột, gồm
hai hàng 08 cột cái và hai hàng 12 cột quân; phía trên có 06 bộ vì kèo, hai vì
hồi không có cột cái đỡ, nên được làm đơn giản theo kiểu kèo cầu, trụ báng quá
giang; hai bộ vì gian cạnh được làm theo kiểu ván mê, chạm hoa văn lá lật hóa hổ
phù ở vì nóc và lá lật xen kẽ văn triện ở vì nách; hai bộ vì gian trung tâm được
làm theo kiểu "Thượng giá chiêng, hạ chồng rường", giá chiêng được đặt
trên các đấu đỡ chạm hoa sen, các thanh ngang và thanh rường đều được chạm khắc
hoa văn lá lật.
Gần đây nhân dân trong làng đã dùng sơn màu nâu, sơn lên tất
cả các cấu kiện gỗ trong khung kiến trúc làm cho đường nét chạm trổ không còn
được sắc nét và mềm mại như trước, duy có hệ thống bẩy hiên không bị sơn lại
nên trông nét chạm có phần tinh xảo hơn.
Hậu cung gồm 3 gian (5,45m x 5,16m), xây kiểu mái chảy lợp
ngói mũi, hồi đắp ngũ đấu, hai cột hiên có thiết diện vuông trên đắp đấu kép, lồng
đèn, dọc thân cột nhấn hai câu đối chữ Hán. Hai gian tả, hữu của Hậu cung được
trang trí giống hệt nhau, phía trên treo một bức tranh gỗ, chạm khắc theo đề
tài tứ linh; phía dưới treo một bộ cửa võng và xây ban thờ đặt bài vị, bát
hương thờ các vị Tiến sĩ làng Bệ.
Hiện vật quý nhất tại đình An Bài là đôi câu đối gỗ lòng
máng, có niên đại từ thời Nguyễn, diềm chạm hoa dây, lòng sơn son, chữ chạm nổi,
thếp vàng; nội dung câu đối "Tam vương sự nghiệp lưu thần tích, Biến thế
khoa danh lũy quốc ân" đã khẳng định lịch sử thờ cúng tại đình An Bài.
Với những giá trị tiêu biểu trên, đình An Bài, tỉnh Thái
Bình được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử quốc
gia theo Quyết định số 37/QĐ-BVHTTDL ngày 07/01/2020.
Khánh Chi
Nguồn: Cục
Di sản văn hóa