Đình Bảo Đà, Dữu Lâu, thờ phụng Cao Sơn Đại vương, Quý Minh Đại vương và Cương Trực Đại vương , những vị thần tướng có công trong dựng nước, giữ nước thời Hùng Vương thứ 18. Đình nằm cách trung tâm thành phố Việt Trì 1km về phía Đông Bắc.
Dữu Lâu là vùng đất cổ. Tương truyền đây là nơi đặt kho tàng
của các Vua Hùng. Trên đất Dữu Lâu có chợ Dầu là chợ chuyên bán trầu không cho
các vương hầu, công chúa, thần dân thời Hùng Vương; có làng Hương Trầm có cánh
đồng trồng lúa nếp nổi tiếng từ thời Hùng Vương để làm bánh chưng, bánh dầy, thổi
xôi trong các dịp lễ tết. Thời Hùng Vương, vùng đất này thuộc địa bàn kinh đô
Văn Lang cổ đại - Nhà nước đầu tiên của người Việt Nam.
Cùng với kho tàng văn hoá dân gian phong phú trải dài trên
11ha đồi gò san sát, nối tiếp nhau như đồi Chu Ba, Mỏ Cú, đồi Bụt, Mã Quàng, đồi
Mây, đồi Bổng, đồi Gầu, gò Bông, núi Rùa, núi Nghè.v.v....; 250ha đồng ruộng
như đồng Cả, Đè Mát; 60ha vùng đất bãi phì nhiêu xưa chuyên trồng dâu nuôi tằm
nằm xen giữa những hồ, ao, đầm, lớn nhất là Chằm Trương, vụng Ổ Rồng... là những
di tích văn hoá vật thể như đình Bảo Đà, đình Hương Trầm, đình Dữu Lâu, đình Quế
Trạo, miếu Dữu Lâu - nơi thờ cúng những người có công với nước, với dân từ thời
Hùng Vương dựng nước, được nhân dân tôn làm thành hoàng làng.
Đình Bảo Đà - một ngôi đình thiêng.
Đình Bảo Đà thuộc khu Bảo Đà, phường Dữu Lâu, nằm cách trung
tâm thành phố Việt Trì 1km về phía Đông Bắc.
Đình có kiến trúc theo kiểu chữ Đinh 2 tầng 8 mái đao cong,
với nghệ thuật chạm khắc đình làng thời Nguyễn trên các dép hoành, đầu dư, cửa
võng, cửa khám, cùng với các cổ vật: Ngọc phả, sắc phong, kiệu, ngai thờ, lư
hương gốm da lươn...
Năm 1993, đình được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch xếp hạng
Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia.
Hàng năm, để chuẩn bị cho lễ hội đình Bảo Đà năm sau, dân
làng họp bàn việc tổ chức lễ hội, tu bổ đình, chỉnh trang đồ khí tự, định ngày
giỗ, rước chủ tế từ nhà riêng ra đình. Chủ tế do dân làng cử, người được cử làm
chủ tế phải là người có uy tín, có “máu mặt”, không có “bụi”.
Trong buổi hội diện này việc chuẩn bị cỗ lễ cho ngày lễ của
các lềnh, việc tổ chức múa lân, hát Xoan (xuân) được thông báo cụ thể.
Theo thông lệ ngày mồng 1 tháng Giêng mở cửa đình; ngày mồng
2 tháng Giêng rước chủ tế từ nhà ra đình; ngày mồng 3 cúng đình và tiệc làng,
trong ngày này rước kiệu Minh văn và Bát cống; ngày mồng 5 lễ tạ và đóng cửa
đình.
Lễ tạ gồm ông chủ tế và ông từ. Lễ vật là một ván xôi gà do
ông từ sắm, cũng ngày này chủ tế khao dân.
Ngoài lễ hội đầu xuân, đình Bảo Đà còn tổ chức lễ hội vào
tháng 5 và tháng 10 âm lịch. Lễ hội tháng 5 (dân làng thường gọi là tiệc): Được
tổ chức vào ngày 15 âm lịch; lễ hội tháng 10 tổ chức vào ngày mồng 5 âm lịch. Lễ
vật trong hai ngày tiệc này có xôi gà, chè kho, chuối tiêu chín, giá đỗ xào,
măng tre băm nhỏ.
Lễ vật chính vẫn là lợn đen, nặng từ 80kg trở lên do các lềnh
sắm. 4 giáp mổ 4 lợn và có thi ngôi. 4 giáp thi lấy 5 ngôi thứ: Ngôi 1 đặt ở
bàn thờ chính giữa, ngôi 2 đặt bên phải, ngôi 3 đặt bên trái, ngôi 4 đặt ở hậu
cung, ngôi 5 đặt tại văn chỉ. Ban chấm giải gồm: Chủ khảo (chủ tế), ông từ, cựu
chủ tế và một vài quan viên.
Thi ngôi xong thì tế. Tế lễ xong, lễ vật được chia phần cho
các lềnh để chia cho dân làng theo xuất đinh.
Trong ngày tiệc có hát Xoan (Theo các cụ là hát Xoan nhưng với
nội dung lời ca, thể thức thì đây là hát Ví giao duyên). Hát Xoan được tổ chức
giữa trai làng Lâu Thượng với gái làng Bảo Đà.
Theo lời kể của các cụ ở Bảo Đà thì trai làng Lâu Thượng bơi
thuyền từ làng mình qua cống Hai Họng lên Bảo Đà hát; Đoàn đi hát gồm nhiều
thuyền, mỗi thuyền thường từ 3 đến 5 người: Một bơi mũi, một cầm lái và ba nam;
trang phục đơn giản: Áo quần ta, đầu buộc khăn đỏ, mình cũng thắt khăn đỏ.
Nữ làng Bảo Đà thường đứng trên bờ đầm, nơi thuyền trai làng
Lâu Thượng bơi qua hoặc ở bến đợi. Nữ Bảo Đà tụ tập từng tốp, mỗi tốp từ 3 đến
5 người, trang phục giản đơn: Áo cánh trắng, quần thâm, tóc vấn để đuôi gà.
Trình tự cuộc hát thường mở đầu là hát chào hỏi về tên tuổi, gia thế:
Nữ:
Gặp đây tính mới hỏi tình
Hỏi chàng quê quán, quý danh là
gì?
Xuân xanh bao tuổi đương thì?
Nam:
Quê anh xóm Nội gần thôi
Thường thường anh vẫn sang chơi chốn này...
...Tên anh là Vũ là Chương
Tuổi vừa hai bốn chưa đường gia thất
Mong sao sum họp một nhà
Để thầy mẹ biết để ta yên lòng...
Sau phần hát chào hỏi là phần tỏ tình: Cuộc hát đối đáp,
trao tình giao duyên kéo dài cho đến khi tàn; nhiều khi bên nam thua cuộc, quay
thuyền về làng với lời hát chào chua ngoa của các cô gái làng Bảo Đà:
Chàng về bên ấy xuân tình
Ngày mai em gửi tiểu sành về cho
Trong ngày tiệc, ngoài Hát Xoan còn có đấu vật. Phường vật
thường được làng mời từ Sơn Tây lên.
Từ sau cách mạng tháng tám 1945, lễ hội đình Bảo Đà vẫn được
duy trì nhưng không thường xuyên, có lúc đứt đoạn và có thay đổi cho phù hợp với
điều kiện xã hội và thổ nhưỡng (đầm nước bị thu hẹp...). Ngày lễ tổ chức đơn giản
hơn, mọi chi phí cho ngày tiệc thường dựa vào số tiền cung tiến.
Việc trùng tu, tôn tạo đình làng do Nhà nước cấp. Theo thời
gian mái trái của đình hiện đang bị hư hỏng, phường Dữu Lâu trình xin cấp kinh
phí tu bổ để giữ lại một di sản văn hóa vật thể và phi vật thể vô giá cho muôn
đời sau.
Dương Huy Thiện