Đình Bát Tràng thờ sáu vị thần đã có công giúp dân đánh giặc giữ nước bao: gồm: Lưu Thiên Tử Đại Vương, Bạch Mã Đại Vương, Tràng Thuận Nghi Dung, Phan Đại tướng, Cai Minh Đại Vương và Hồ Quốc Thần Đại Vương.
Đình Bát Tràng là một trong số những ngôi đình lớn của xứ
Kinh Bắc xưa. Đình nằm tại làng Bát Tràng, xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, thành
phố Hà Nội. Đình Bát Tràng thờ sáu vị thần đã có công giúp dân đánh giặc giữ nước
bao: gồm: Lưu Thiên Tử Đại Vương, Bạch Mã Đại Vương, Tràng Thuận Nghi Dung,
Phan Đại tướng, Cai Minh Đại Vương và Hồ Quốc Thần Đại Vương.
Đình được làm lại vào năm 1720 đời vua Lê Dụ Tông, xây theo
kiểu chữ Nhị, phía trong là hậu cung gồm 3 gian, phía ngoài là tòa đại bái gồm
5 gian 2 chái. Cột đình làm bằng những cây gỗ lim lớn, Các gian bên được lát bục
gỗ theo bậc tam cấp làm chỗ ngồi, đình quay ra sông Nhị Hà. Hiện nay đình còn
lưu giữ hơn 50 đạo sắc phong cho thành hoàng, đời vua Lê Cảnh Hưng, đời vua
Quang Trung và vua Cảnh Thịnh.
Nằm trong quần thể di tích của làng gốm sứ cổ truyền Bát
Tràng, thành phố Hà Nội, đình Bát Tràng được xây dựng vào năm 1720. Với kiến
trúc bề thế, đình quay về hướng Tây, nhìn ra dòng sông Hồng.
Phía sau Đình là khu Văn chỉ của làng, nằm trên con ngõ đi ra Đình
Mái Đình với hình đắp nổi đầu rồng và cặp nghê
Kiến trúc đình theo lối chữ Nhị, phía sau là Hậu cung, nơi
thờ 6 vị thánh thần được được suy tôn là Lục vị Thành Hoàng. Phía trước là tòa
Đại bái gồm 5 gian 2 trái với hai tầng bục gỗ và được dựng bởi nhiều cây cột gỗ
lim lớn hàng vòng tay người ôm không xuể.
Chính giữa tòa Đại bái là hương án thờ Công đồng, bên trên
treo hai bức đại tự sơn son thếp vàng lớn: "Thiên địa hợp kì đức" 天地合其德(Đức
lớn thuận theo trời và đất), lấy nghĩa theo quẻ đầu tiên trong Kinh Dịch.
Nội dung của bức Đại tự này cũng chính là tôn chỉ của dân
làng bao đời nay: Trong cuộc sống luôn lấy chữ Đức làm đầu, mọi việc tất sẽ
hanh thông, thuận lợi. Và bức đại tự "Hiếu nghĩa cấp công 好義急公"
- Đây chính là tấm biển vua Nguyễn ban cho dân Bát Tràng khi nhà Nguyễn xây
thành Hà Nội vì nghĩa lớn dân làng Bát Tràng đã cạy gạch ở sân đình dâng nộp
cho triều đình.
Hai bên hương án là đôi câu đối ghi dấu gốc tích con dân
làng Bát: "Bồ di thủ nghệ khai đình vũ - Lan nhiệt tâm hương bái thánh thần"
(埔移手藝開亭宇
,
蘭熱心香拜聖神
- Đem nghề từ làng Bồ ra khởi dựng đình miếu, Lòng thành như hương lan cúng tạ
thánh thần).
Hai bên chái đình là ban thờ Vách Tả, Vách Hữu. Theo các cụ
già trong làng kể lại, hai bên vách đình thờ những người trong làng không có
con cái. Đây cũng chính là một nét văn hóa đẹp thể hiện cái đức Hiếu sinh của
người dân làng Bát.
Bục thấp nhất và sân đình được lát bằng gạch Bát - Thứ gạch
đã đi vào thơ ca, huyền thoại của dân tộc, thứ gạch xe duyên xây bể, thứ gạch bền
chắc mà không một loại rêu nào bám được và đã được ưa dùng từ cung đình đến
làng xã.
Bốn mái đình cong vút, lượn sóng, phía trên đắp hình Nghê vừa
mềm mại, vừa khoẻ khoắn, uy nghiêm. Trên cửa chính bước vào tòa Đại bái treo bức
Hoành phi với bốn chữ "Bạch thổ danh sơn 白土名山", gợi nhớ lại cái
khung cảnh sơ khai của vùng đất sét trắng - Bạch Thổ Phường (Bát Tràng ngày
nay) khi dòng họ Nguyễn Ninh Tràng mới theo vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về
Đại La để sản xuất loại gạch Vĩnh Ninh Trường phục vụ công cuộc xây dựng kinh
thành mới.
Cột đồng trụ uy
nghiêm như những cây bút lớn viết thẳng lên trời xanh mang khí thế truyền thống
khoa bảng của làng. Trên cột đồng trụ gắn đôi câu đối sứ: "Ngũ hành tú khí
chung anh kiệt - Vạn trượng văn quang biểu cát tường" (五型秀氣煄英傑,萬丈文光表吉祥
- Nơi hội tụ khí thiêng hun đúc nên các bậc anh hùng hào kiệt - Ánh sáng văn
hóa tỏa xa vạn dặm biểu thị sự cát tường). Cửa tả, cửa hữu lần lượt gắn hai
hàng chữ "Thổ thành kim" (土成金 - Đất biến thành vàng),
"Nê tác bảo" (泥做寶 - Bùn làm ra của báu) - Bùn
đất qua đôi bàn tay người nghệ nhân làng Bát trở thành những vật phẩm quý giá,
đồ cống tế ngoại giao.
Trải qua các Triều đại lịch sử, đình Bát Tràng hiện còn lưu
giữ được hơn 50 đạo sắc phong. Năm 1976, đình và Văn chỉ Bát Tràng vinh dự đón
Đại tướng Võ Nguyên Giáp về thăm. Chính bởi những giá trị về kiến trúc và văn
hóa như vậy, năm 2005 Bộ Văn hóa thông tin đã cấp bằng Di tích Văn hóa Kiến
trúc Nghệ thuật cho đình Bát Tràng.
Sau gần 300 năm tuổi cộng với chiến tranh địch họa, đình bị
hư hoại nặng. Từ năm 2005, dân làng Bát Tràng đã cùng nhau đóng góp, đại trùng
tu đình. Nay công trình đại trùng tu đã hoàn tất, đình Bát Tràng đã trở lại
đúng với dáng dấp xưa.
Một vị tướng thời nhà Đinh là Lưu Cơ được thờ là Thánh cả được
thờ là Thành Hoàng làng nghề gốm sứ Bát Tràng. Ông được suy tôn là Lưu Thiên tử
Đại vương được thờ trong đình Bát Tràng.
Theo "Bát Tràng - làng nghề, làng văn" Chủ biên
PGS TS Bùi Xuân Đính, Nhà xuất bản Hà Nội, 2013 (tr.290-300) thì đình Bát Tràng
thờ 6 vị Thành hoàng: Lưu Thiên Tử đại vương, Đức Thánh bà - Lã Đệ tam Đại
vương, Bạch Mã Đại vương, Phan Đại tướng Đại vương, Hộ Quốc Đại vương và Cai
Minh Tự Đại vương.
Trong đó Lưu Thiên Tử Đại vương là Thánh cả, được thờ ở giữa,
nơi trang trọng nhất. Ý kiến đánh giá của Ts. Nguyễn Việt cho biết Lưu Thiên Tử
Đại vương là Lưu Cơ vì Lưu Cơ là con cầu tự tại Sơn thần Bạch Bát ở Ninh Bình
(do vậy thường được gọi là "con trời cho" hay "con trời - Thiên
tử", khi mất được dân làng Bạch Bát thờ là Thành Hoàng.
Khi dân Bạch Bát mang nghề gốm sứ từ làng Bồ Bát (Bồ Bát hiện
là Bồ Xuyên và Bạch Bát) ra Bạch Thổ (Bát Tràng) lập nghiệp, cư dân các làng
thông thường khi di chuyển đi nơi khác thường lấy thành hoàng làng gốc để thờ tại
làng mới.
Một số câu đối tại đình Bát Tràng
埔移手藝開亭宇
蘭熱心香拜聖神
Phiên âm:
Bồ di thủ nghệ khai đình vũ
Lan nhiệt tâm hương bái thánh thần
Dịch nghĩa:
Đem nghề từ làng Bồ ra khởi dựng đình miếu
Lòng thành như hương lan cúng tạ thánh thần.
兩界交爭圖畫入
重門煙月太平開
Phiên âm:
Lưỡng giới giao tranh đồ họa nhập
Trùng môn yên nguyệt thái bình khai.
Dịch nghĩa:
Gianh giới giữa hai nơi đẹp như tranh vẽ
Cửa từng lớp, khói che mặt trăng, mở ra một thời thái bình,
thịnh trị.
五行秀氣煄英傑
萬丈文光表吉祥
Phiên âm:
Ngũ hành tú khí chung anh kiệt
Vạn trượng văn quang biểu cát tường
Dịch nghĩa:
Nơi tụ hội khí thiêng hun đúc nên những bậc anh hùng hào kiệt
Ánh sáng văn hóa tỏa xa vạn dặm biểu hiện sự cát tường.