Đình Bình Vọng có từ trước năm 1613, tại xã Văn Bình, huyện Thường Tín, Hà Nội, thờ phụng Tam vị thành hoàng thời Lý và thời Trần được xếp hạng: di tích quốc gia năm 1999.
Thôn Bình Vọng có từ thời Lý, tên Nôm là làng Bằng,
nằm ở phía bắc thị trấn Thường Tín, cách sông Hồng và sông Nhuệ gần 4km
đường chim bay. Trước tháng 8-1945 vốn là xã Bình Vọng, thuộc tổng Hà Hồi,
huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông; hiện nay thuộc xã Văn Bình,
huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội.
Tương truyền thời Lê sơ, thầy phong thuỷ Tả Ao đi qua làng
nói: “Bình Vọng tựa như vân tán, thế địa linh tất sinh nhân kiệt”. Hồi đó dân
làng làm ra rượu sen tiến vua, được Nguyễn Trãi ghi trong sách “Dư địa chí”.
Ca dao có câu: “Xứ Nam nhất chợ Bằng, Vồi”. Thời Nguyễn, sách “Đại Nam nhất thống
chí” cũng ghi: “Chợ Bình Vọng ở huyện Thượng Phúc, là chợ lớn trong phủ Thường
Tín”.
Đình có từ lâu đời, ít nhất cũng trước năm 1613. Trong
cung cấm thờ bài vị của 3 thành hoàng làng là Đệ nhất tối linh thần Tuấn
Lương Thành, danh tướng họ Đỗ, Đệ nhị tối linh thần Thục Diệu, công chúa
nhà Trần, Đệ tam tối linh thần Chiêu văn vương, thái uý Trần Nhật Duật.
Tam quan đình Bình Vọng.
Theo thần tích, xưa ở huyện Tống Sơn, Thanh Hóa, có người họ
Đỗ tài năng, mưu lược. Vào thời Lý, giặc giã nổi lên, ông được lệnh vua đi dẹp.
Giặc tan, lúc trở về qua đất Bình Vọng, bỗng trời nổi trận phong ba, ông khi đó
đi một mình một ngựa, tùy thân có một thanh gươm và ngọn cờ đào rồi hóa. Dân
làng lạy tạ và dựng một ngôi đền bằng tranh tre để thờ.
Sau này, vua Lý trên đường đi đánh giặc Cự Long (Ái Châu) có
dừng chân trước miếu, thấy đại vương hiển linh và xin được âm phù. Quả nhiên mới
giao tranh một trận, giặc đã bị dẹp tan. Khi khải hoàn về kinh, vua nhớ công của
thần đã sai dân xây miếu và lợp ngói, ban biển vàng “Linh ứng điện”.
Đến đời nhà Trần có nàng công chúa đoan trang, thuần hậu, được
vua phong cai quản địa phận Bình Vọng. Tại đây, bà xin vua miễn tô thuế cho
dân. Lại sai đào một con ngòi ở phía nam làng, gọi là ngòi Nam Lang để tiện cho
thuyền bè qua lại. Khi công chúa và vua cha tới thăm chùa Báo Quốc, thuyền ngự
đi về thường có đám mây ngũ sắc vờn che. Có vị cao tăng chỉ vào công chúa mà bảo:
“Đó là vị thánh nữ”.
Sau khi công chúa mất, dân nhớ ơn, viết sớ tâu xin lập đền
phụng thờ, được sắc ban làm phúc thần. Năm 1285 trên đường đi đánh giặc Nguyên ở
Hàm Tử Quan, thái uý Chiêu văn vương Trần Nhật Duật cho đóng quân tại Bình Vọng
và vào cầu đảo ở đền.
Truyền thuyết kể ngài được thần nhân báo mộng “lần này ắt
sẽ thắng to” rồi quả là như thế. Sau khi ngài mất, dân xã đã lập miếu thờ
ngay bên cạnh tòa thành đất của phủ Thường Tín, cách không xa bến Chương Dương.
Trong đình Bình Vọng.
Đình Bình Vọng nằm liền kề chùa Báo Quốc (tương truyền
được xây từ thời Lý), cả hai cùng nhìn về phía đông nam qua sân rộng và
đường làng. Tam quan của đình được xây ba tầng, lợp ngói ống giả, trông
khá đồ sộ, mỗi cổng đều có trụ biểu đắp câu đối chữ Hán. Hai bên cửa
chính có phù điêu hình hộ pháp, phía sau là sân gạch, phương đình rồi
đến toà tiền tế 5 gian kết nối với hậu cung 3 gian.
Có một vườn muỗm cổ thụ trên bán đảo nhô ra hồ nước
phía trước chùa và đình. Cuối vườn là một chiếc cầu gỗ xinh xinh bắc qua
bờ bên kia. Cầu gồm 7 gian lợp ngói mũi hài, dài gần 20m, rộng hơn 3m, hai
bên có dãy bục gỗ để ngồi chơi. Mỗi đầu dầm cầu có chạm hình đầu rồng khá cầu
kỳ, các cây cột giữa được khắc 4 đôi câu đối... Cầu được xây lại vào thập
niên 2000, gần 60 năm sau khi bị phá hủy trong kháng chiến chống Pháp.
Hồ đình Bình Vọng.
Đình có nhiều bia cổ. Bia “Bình Vọng xã đình bi” dựng năm
Vĩnh Tộ 3(1613) ghi rõ 6 điều lệ làng xử người phạm tội trộm cắp, tội nói năng
bừa bãi, tội cố ý gây thù oán với người xung quanh. Bia thứ hai khắc năm Phúc
Thái 4 (1646) nêu quy ước của làng về ruộng đất: “Ai cậy quyền thế lấn chiếm đất
công sẽ bị xử tội, ai trốn chạy thì bắt anh em thay thế và tịch thu ruộng đất
hoặc phạt 100 quan tiền”.
Bia thứ ba tạc năm Khánh Đức 2 (1650) kể chuyện bà đồng
Nguyễn Thị Ngọc Vĩnh giỏi tiên tri, được Chúa Trịnh phong tước hầu, lại cấp cho
92 mẫu 3 sào đất. Trước khi mất, bà đã hiến cho làng số ruộng đó và mua hậu
thêm 21 mẫu ruộng tư cho làng phụng thờ tế tự.
Làng còn có văn chỉ để nêu cao truyền thống hiếu học,
đây từng là nơi Hội trưởng Hội Truyền bá quốc ngữ Nguyễn Văn Tố về khai mạc
khóa học chữ quốc ngữ đầu tiên. Từ thế kỷ XV đến XIX, trong làng có nhiều tiến
sĩ Nho học, gồm: Trần Lư [1] đỗ năm 1502; Nguyễn Hữu Đăng (1667); Nguyễn Tuyền
(1718); Trần Trọng Liêu (1733); Lê Nguyễn Thường (1772); Lê Tông Quang (1822);
Nguyễn Tông (1829); Nguyễn Hinh (1848).
Hội làng được tổ chức hàng năm trong 2 ngày mùng 7
và mùng 8 tháng Ba Âm lịch để tưởng nhớ và tôn vinh công đức của 3 vị
thành hoàng.
Ngày 19-2-1999, đình Bình Vọng được xếp hạng Di tích lịch
sử - kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia.
Nguồn: https://www.360.hncity.org/