Đình Bình Sơn, thị trấn Tam Sơn, huyện Sông Lô thờ phụng Nhị vị đại vương là Đức Thánh Ông Minh Lang Đại vương (Quý Minh Đại vương) và Đức Thánh Bà Ả Nương nương thời Hùng Vương thứ 18, được các triều đại phong kiến gia phong thần.
Đình Bình Sơn (cách chùa - tháp Bình Sơn khoảng hơn 1km) tọa
lạc trên một gò đất có địa thế thoáng đãng, sơn thủy hữu tình của làng Bình
Sơn, xã Tam Sơn (nay là tổ dân phố Bình Sơn, thị trấn Tam Sơn, huyện Sông Lô, tỉnh
Vĩnh Phúc).
Làng Bình Sơn trước đây là một trong 13 làng thuộc tổng Đạo
Kỷ, huyện Lập Thạch, gồm: Đạo Kỷ, Như Sơn, Lạc Sơn, Bình Sơn, Sơn Cầu, Thụy
Sơn, Thụy Điền, Đồng Thị, Man Thạch, Cẩm Bình, Quế Nham, Quế Trạo, Ân Hộ. Đạo Kỷ là một tổng có diện tích lớn trong thời
gian đó; nay thuộc 5 xã và 01 thị trấn là: Nhạo Sơn, Như Thụy, Tân Lập, Đồng Quế
và thị trấn Tam Sơn.
Thị trấn Tam Sơn ngày nay được hình thành bởi các làng cổ:
Bình Sơn, Bình Lạc, Lạc Kiều và Sơn Cầu. Là thị trấn huyện lỵ huyện Sông Lô,
Tam Sơn có diện tích tự nhiên 376,4 ha, dân số trên 4.000 người. Phía Đông, Tam
Sơn giáp xã Nhạo Sơn; phía Tây, Tam Sơn giáp dòng sông Lô, phía Nam giáp xã Như
Thụy, phía Bắc giáp xã Đồng Quế và xã Phương Khoan, đều cùng huyện Sông Lô.
Trải qua những thăng trầm lịch sử và sự thay đổi địa danh hành
chính, làng Bình Sơn từng có vị trí như sau:
- Thời Hùng Vương, Bình Sơn thuộc trang Tây Cố, bộ Văn Lang.
- Thời đầu Công Nguyên, Bình Sơn thuộc huyện Mê Linh, quận
Giao Chỉ.
- Từ thế kỷ III đến thế kỷ V, Bình Sơn thuộc huyện Gia Ninh,
quận Tân Xương.
- Từ thế kỷ VI đến thế kỷ X, Bình Sơn thuộc huyện Tân Xương,
quận Phong Châu - Thừa Hoá.
- Thời nhà Trần (thế kỷ XIII đến thế kỷ XIV), Bình Sơn thuộc huyện Lập Thạch, châu Tam Đái
(còn gọi là Tam Đới), lộ Đông Đô.
- Thời nhà Lê, Bình Sơn thuộc huyện Lập Thạch, phủ Tam Đái,
trấn Sơn Tây.
- Thời Nguyễn, trấn đổi thành tỉnh, Bình Sơn thuộc huyện Lập
Thạch, phủ Tam Đái, tỉnh Sơn Tây.
- Tháng 10 năm 1890, chính quyền thực dân Pháp thành lập đạo
Vĩnh Yên, Bình Sơn thuộc đạo Vĩnh Yên.
- Tháng 12 năm 1899, thực dân Pháp thành lập tỉnh Vĩnh Yên,
đất đai Bình Sơn thuộc huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Yên.
- Năm 1907, Bình Sơn nằm trong tổng Đạo Kỷ, huyện Lập Thạch,
tỉnh Vĩnh Yên.
- Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính phủ nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà xoá bỏ đơn vị hành chính cấp tổng, mở rộng phạm vi cấp xã thì
Bình Sơn là một thôn thuộc xã Tam Sơn, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Yên.
- Năm 1950, tỉnh Vĩnh
Yên sáp nhập với tỉnh Phúc Yên thành tỉnh Vĩnh Phúc, Bình Sơn thuộc xã Tam Sơn,
huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Năm 1968, hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ sáp nhập thành tỉnh
Vĩnh Phú, Bình Sơn thuộc huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phú.
- Tháng 1 năm 1997, tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập, thôn Bình
Sơn thuộc xã Tam Sơn, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Tháng 5 năm 2008, Tam Sơn nâng cấp thành thị trấn trên cơ
sở toàn bộ diện tích và dân số của xã Tam Sơn.
- Tháng 4 năm 2009, huyện Sông Lô được thành lập trên cơ sở
diều chỉnh địa giới huyện Lập Thạch, thị trấn Tam Sơn trở thành huyện lỵ huyện
Sông Lô. Kể từ đó đến nay, di tích lịch sử - văn hóa đình Bình Sơn có địa chỉ
như trên.
Sự kiện, nhân vật lịch
sử, đặc điểm của di tích
Theo tài liệu Xã chí làng Bình Sơn hiện đang lưu trữ tại Viện
Nghiên cứu Hán Nôm do chức dịch làng Bình Sơn kê khai tại mục 2 (Thần sắc) thì
đình Bình Sơn thờ Nhị vị đại vương là Đức Thánh Ông Minh Lang Đại vương và Đức
Thánh Bà Ả Nương nương được các triều đại phong kiến gia phong thần.
Về lịch sử, hành trạng của vị thần Minh Lang và Thánh Bà hiện
nay chưa được xác minh rõ, chỉ còn sự tích tương truyền trong nhân dân địa
phương là hai ông bà sống vào thời Hùng Vương đã có công dạy dân làm nông nghiệp
và lập làng, mở đất vùng Bình Sơn.
Theo tương truyền, vị thánh Minh Lang là khảo dị của thánh
Quý Minh Đại Vương (cùng với Cao Sơn là một trong hai bộ tướng, em họ của Tản
Viên Sơn Thánh) được dân gian truyền tụng là người có công dạy dân làm nông
nghiệp (ba ông được coi là tổ nghề nông) và được thờ ở rất nhiều địa phương thuộc
vùng đồng bằng, trung du Bắc Bộ. Về lịch sử, hành trạng của Qúy Minh Đại vương
được sưu tầm, khảo cứu như sau:
Thời Hùng Duệ Vương, ở động Lăng Xương, phủ Gia Hưng, đạo
Sơn Tây có người tên là Nguyễn Xương, lấy vợ cùng quê tên là Lưu Thị Hạnh. Hai
vợ chồng chăm chỉ làm ăn nên chẳng mấy chốc mà giàu có, lại có lòng nhân đức,
phúc hậu, luôn làm việc thiện, không làm phật lòng ai bao giờ.
Mọi người trong vùng ai nấy đều hết lòng ngợi khen và quý mến.
Tuy nhiên đến năm ông Xương ngoài 60 tuổi, bà Hạnh cũng đã quá 50 tuổi mà hai vợ
chồng vẫn chưa có người con nào, họ rất lấy làm buồn phiền.
Một ngày nọ, nhân lúc tiết trời xuân ấm áp, thanh nhàn, ông
Xương cùng người anh là Nguyễn Cao mang theo gia quyến lên núi Tản Lĩnh (núi Ba
Vì) nổi tiếng là nơi thắng tích linh thiêng để du xuân, ngắm cảnh. Đoàn người
đi tới chân núi, bỗng một ông lão râu tóc bạc phơ, tay cầm gậy trúc xuất hiện,
vừa đi, vừa hát. Lấy làm lạ, hai anh em ông Nguyễn Xương thầm bảo nhau rằng: “Cụ
già này nếu không phải là thần tiên trên trời thì nhất định là thần núi Tản
Viên, chứ quyết không thể là người trần được”.
Hai anh em cùng bước tới chắp tay vái lạy: “Chúng con sinh
ra ở cõi trần, nay của cải không thiếu, hiềm một nỗi tuổi đã cao mà chưa có con
nối dõi. Nay may mắn được gặp tiên ông, dám xin tiên ông mở lòng từ bi ban cho
đặc ân, anh em chúng con xin được đội ơn”.
Ông lão cả cười mà rằng: “Ta không phải là tiên cũng chẳng
phải là thánh, chỉ là người nhàn tản ngoài kiếp tam sinh mà thôi. Nay các ngươi
gặp ta ở đây cũng là có phúc lớn vậy. Ta vừa tìm thấy một khoảnh đất ở sườn núi
rất đẹp, thế long chầu hổ phục, lại tụ thuỷ sinh phúc, nếu ai táng mộ ở đó ắt
sinh ra thánh nhân. Các ngươi hãy về thu gom hài cốt tổ tiên, ngày mai đến đây
ta sẽ giúp cho”.
Hai anh em Nguyễn Xương rất mừng bèn trở về nhà và làm theo
ông lão dặn, sau đó lại đem của cải ban phát cho mọi người, giúp nghèo cứu khổ.
Quả nhiên chưa đầy 2 năm sau, vợ của hai ông đều mang thai.
Đến kỳ sinh nở, vợ ông Nguyễn Cao sinh được một người con
trai đặt tên là Nguyễn Tuấn, vợ ông Nguyễn Xương sinh hạ được một bọc hai người
con đặt tên là Nguyễn Sùng và Nguyễn Hiển. Cả ba cậu bé đều có tướng mạo khôi
ngô, tuấn tú, gia đình họ đều mừng vui khôn xiết.
Thời gian trôi đi, ba cậu bé đều khôn lớn, hiểu rộng tài
cao, thông tỏ mọi thứ. Bỗng đến năm ba cậu tròn 14 tuổi, cha mẹ các cậu không bệnh
mà nối tiếp nhau qua đời trong vòng chưa đầy một năm.
Nguyễn Tuấn, Nguyễn Sùng và Nguyễn Hiển chọn nơi đất tốt làm
lễ an táng cha mẹ, cả ba người cùng nhau lên núi Tản Lĩnh xin làm con nuôi của
thần nữ họ Ma. Nguyễn Tuấn còn được thần Thái Bạch cho một cây gậy thần và được
vua Thuỷ Tề cho một cuốn sách ước.
Ba anh em cùng nhau dùng cuốn sách thần và cây gậy ước cứu
giúp dân chúng khắp nơi nên được người người mến mộ, tôn kính gọi là Sơn thần.
Khi thần nữ họ Ma qua đời, bà truyền cả gia tài cho Nguyễn Tuấn. Nguyễn Tuấn
(hiệu là Tản Viên Sơn Thánh) liền chia phần bên tả núi Tản giao cho Nguyễn
Sùng, phong là Tả kiên thần; bên hữu núi Tản giao cho Nguyễn Hiền và phong cho
làm Hữu kiên thần.
Lúc bấy giờ, Hùng Duệ Vương không may chẳng có người con
trai nào nối dõi cơ nghiệp, chỉ có hai cô công chúa là Tiên Dung và Mỵ Nương.
Công chúa Tiên Dung thì đã theo Chử Đồng Tử, chỉ còn Mỵ Nương là vẫn chưa kết
duyên cùng ai. Vua bèn cho dựng lầu kén rể ở Việt Trì rồi xuống chiếu truyền
cho thiên hạ khắp nơi ai là người tài giỏi, văn võ song toàn sẽ được vua gả
công chúa và truyền ngôi báu. Các bậc hiền tài nô nức ứng thí, trong đó có Sơn
Thánh và hai em là Nguyễn Sùng và Nguyễn Hiển.
Thấy Sơn Thánh là bậc kỳ tài đệ nhất thiên hạ vua liền đồng
ý gả công chúa Mỵ Nương cho. Sơn Thánh đón Mỵ Nương về động trong núi Tản Lĩnh,
để hai em ở lại giúp vua việc nước.
Nhà vua sau khi thử
tài thấy hai ông đối đáp trơn tru, võ nghệ tinh thông, biết đây là bậc hiền tài
tuấn kiệt, liền phong cho Nguyễn Sùng là Tả đô tài, Nguyễn Hiển là Trung thư lệnh.
Hai ông một lòng giúp vua cai trị đất nước làm cho xã tắc yên bình, muôn dân no
đủ.
Quãng thời gian đó, người em út là Nguyễn Hiển mỗi khi nhàn
rỗi thường ngao du sơn thuỷ tới vùng núi bên kia sông (tức vùng đất Lập Thạch
ngày nay). Tới đâu ông đều giúp dân tổ chức cuộc sống, dạy dân cày cấy, chăn
nuôi, đánh cá… gây dựng nếp sống thuần phong mỹ tục. Nhờ ơn đức của ông mà vùng
này dần trở nên đông đúc, trù phú, sầm uất. Nhân dân khắp vùng truyền đời ghi
nhớ.
Khi ấy có người dòng dõi ngoại tộc họ Hùng tên là Thục Phán
- bộ chủ bộ Ai Lao, nghe tin Hùng Duệ Vương muốn truyền ngôi cho con rể liền
đem binh tiến đánh. Nhận tin cấp báo từ biên ải, Hùng Duệ Vương lập tức cho hội
triều để bàn kế sách dẹp giặc.
Vua phong cho Tản Viên Sơn Thánh làm Ngũ Đạo Đại tướng quân,
lĩnh ấn Nguyên soái, thống lĩnh ba quân; phong cho Nguyễn Sùng là Tả tướng,
Nguyễn Hiển làm Tham tán. Ba ông lập tức dẫn quân lên đường và nhanh chóng dẹp
tan quân giặc, giành lại bình yên cho xã tắc.
Dân chúng lại được yên hưởng thái bình. Vua Hùng Duệ Vương
xét công trạng mà ban cho hai ông được hưởng thực ấp ở đạo Sơn Tây (tức là vùng
Sơn Tây, Ba Vì của Hà Nội ngày nay).
Một hôm, Nguyễn Hiển xa giá về thăm lại vùng đất Bình Sơn, Lập
Thạch xưa, thấy cảnh xóm làng bình yên, mây khói hoà quyện trong cây trong núi
tựa chốn tiên cảnh. Tức cảnh sinh tình, ông ứng khẩu ngâm một bài thơ vịnh khen
thế đất rồng chầu hổ phục, nước chảy hiền hoà, phong cảnh sơn thuỷ hữu tình.
Ngâm xong thơ bỗng có tiếng thét vang trời, không gian bỗng
chốc tối sầm, mây ngũ sắc bao phủ vòng quanh, bách thú chầu phục, ông Nguyễn Hiển
cưỡi trên lưng hổ trắng từ từ bay lên không trung và biến mất.
Nhận được tin, Hùng Duệ Vương vô cùng thương tiếc, liền sắc
phong cho ông là Quý Minh Hiển linh Đại vương rồi truyền cho dân các làng, các ấp
nơi nào ngài đã từng qua lại đều được lập đình, miếu để thờ phụng. Nhà vua còn
cho ban phát tiền bạc, ruộng vườn cho những làng có đình, miếu thờ Ngài để
hương khói phụng thờ vĩnh viễn. Từ đó về sau, trải qua các triều vua, mỗi khi
có giặc ngoại xâm, thần đều hiển linh phù giúp, công đức khôn xiết.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp đình Bình Sơn đã nhường
cho Viện Quân y 108 làm nơi sơ tán, cứu chữa thương binh, cho nhà nước mượn làm
kho muối phục vụ chiến dịch Tây Bắc. Sau đó đình làng còn là nơi tổ chức các lớp
học văn hóa; làm nhà kho của hợp tác xã nông nhiệp và là hội trường của xã Tam
Sơn trong thời gian dài.
Quá trình xây dựng, tu bổ, tôn tạo di tích
Theo tài liệu “Xã chí làng Bình Sơn” hiện đang lưu trữ tại
Viện Nghiên cứu Hán Nôm do chức dịch làng Bình Sơn kê khai tại mục 6 (Đình) thì
đình Bình Sơn có dòng chữ Hán ghi trên thượng lương như sau:
“ 嘉隆十四年貳月初七日良辰起工大木旺”
Gia Long thập tứ niên nhị nguyệt sơ thất nhật lương thần khởi
công đại mộc vượng.
Có nghĩa là: Đình Bình Sơn được khởi công xây dựng giờ tốt sáng
ngày mồng Bảy tháng Hai năm Gia Long thứ 14 (1815).
Đình Bình Sơn lúc đó có kiến trúc hình chữ Đinh (丁)
với vật liệu chính là gỗ lim. Tuy nhiên, trong chiến tranh, ngôi đình xưa đã bị
phá hủy hoàn toàn. Đến năm 2005, Nhân dân địa phương đã hưng công, góp của phục
dựng lại ngôi đình trên nền đất cũ với kiến trúc như ngày nay.
Văn hóa tín ngưỡng của Di tích
Theo lời kể của các cụ cao niên và hương ước của làng lưu tại
Viện Hán Nôm thì hằng năm, dân làng Bình Sơn có các lễ tiệc sau:
- Ngày 15 tháng Giêng là tiệc khai xuân.
- Ngày 15 tháng Năm là tiệc tịch điền.
- Ngày 15 tháng Mười là tiệc cơm mới.
- Ngày 15 tháng Mười Một tổ chức chính hội.
Khảo tả di tích
Đình Bình Sơn tọa lạc trên một gò đất cao, có tên là Gò Đình
ở trung tâm làng Bình Sơn. Trong trí nhớ người cao tuổi của làng về ngôi đình
xưa thì: Từ xa nhìn lại đã thấy trụ biểu của nghi môn đình cao vút.
Hai trụ chính tạo ra không gian của cổng chính, còn trụ
chính kết hợp với hai trụ nhỏ tạo thành không gian của cổng phụ. Tiếp nối giữa
cổng chính và cổng phụ là hai cánh phong được đắp phù điêu tượng hai võ tướng đứng
oai nghiêm, mình mặc chiến bào, tay cầm vũ khí, vẻ mặt nghiêm nghị như muốn nhắc
nhở, răn đe mọi người khi bước vào không gian linh thiêng của thánh thần phải
thể hiện thái độ tôn kính, nghiêm trang.
Đình Bình Sơn có mặt bằng kiến trúc hình “chuôi vồ” theo kiểu
truyền thống. Đại đình với diện tích 80m2 được chia thành 5 gian, được hình
thành trên hệ thống cột gỗ có đường kính chân cột là 30cm. Mái đình Bình Sơn được
làm bằng gỗ theo kết cấu kiểu chồng rường, giá chiêng.
Hậu cung của đình với ba gian có diện tích gần 25m2 nối dọc
với gian giữa của đại đình. Kết cấu mái bằng gỗ kiểu chồng rường, giá chiêng tạo
thành hệ vì mái để lợp ngói.
Hiện vật trong di
tích
Hệ thống đồ thờ tại đình Bình Sơn hiện nay là hiện vật mới
đưa vào sử dụng, bao gồm:
- Hai ngai thờ, kích thước: 94cmx50cmx40cm.
- Hai hương án, kích thước: 165cm x 87cm x 56cm.
- Một đại tự (hoành phi) khảm chữ 聖 躬
萬
歲 (Thánh
cung vạn tuế), kích thước 180cm x 60cm.
- Một câu đối, kích thước: 217cm x 38cm, khảm chữ:
Phiên âm:
“保 護 群 生 功 果 大
安 平 邑 里 德 流 光”.
“Bảo hộ quần sinh công quả đại,
An bình ấp lý đức lưu
quang.”
Nghĩa là:
“Giúp đỡ muôn dân công thật lớn
Yên bình thôn ấp đức sáng soi”.
Giá trị Lịch sử, Văn
hóa, Khoa học, Nghệ thuật của Di tích
Đình Bình Sơn được xây dựng vào năm 1815, được phục dựng vào
những thập niên đầu của thế kỷ XXI; thờ Minh Lang Đại vương và phu nhân; tương
truyền là những người có công dạy dân làm nông nghiệp và mở mang vùng đất Bình
Sơn khi xưa.
Theo nghiên cứu và bước đầu đánh giá thì đức thánh Minh Lang
vốn là bộ tướng của Tản Viên Sơn Thánh cùng với Cao Sơn có công đánh giặc cứu
nước, giúp dân thời Hùng Vương. Đình Bình Sơn còn là nơi lưu dấu nhiều sự kiện
thời kỳ cách mạng, kháng chiến. Đồng thời; là nơi tổ chức các lễ hội truyền thống,
các sự kiện lớn, quan trọng của làng cũng như gìn giữ, bảo tồn nhiều giá trị
văn hoá phi vật thể truyền thống quý giá khác.
Với những giá trị lịch sử - văn hóa độc đáo, giàu ý nghĩa,
ngày 15 tháng 2 năm 2019, đình Bình Sơn đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc
xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh, theo quyết định số 556/QĐ-UBND./.
Ban biên tập