Đình Canh Nậu, Xã Canh Nậu, huyện Thạch Thất Hhaf Nội có từ thế kỷ XVII. Thờ phụng Thành hoàng bản thổ, các vị anh hùng dân tộc Quy Hải Long Vương, Ả Lã Nàng Đê, Lý Phục Man, Đỗ Viện.
Xã Canh Nậu cách Hồ Gươm 34 km và cách huyện lỵ Thạch Thất
3 km. Phía bắc giáp xã Hương Ngải, phía nam giáp xã Dị Nậu, phía tây giáp xã
Chàng Sơn (đều cùng huyện), phía đông giáp xã Tam Hiệp (huyện Phúc Thọ).
Dân số năm 1999 là 11.198 người, khoảng 1% theo đạo Thiên
Chúa. Tổng diện tích là 506 ha, mật độ dân số vượt 2.000 người/km². Diện tích
đất canh tác năm 2000 xấp xỉ 370 ha. Xã gồm 4 thôn. Diện tích khu dân cư khoảng
40 ha.
Canh Nậu hiện nay chủ yếu là một làng nghề thủ công tiêu
biểu, với các sản phẩm mộc cao cấp và truyền thống: tủ chè, tràng kỷ, sập, phản,
giường, cầu thang, đồ thờ, đồ gỗ nội thất... Ngoài nghề nông và nghề mộc là
cơ bản, dân địa phương còn có nghề thợ xây, thợ sắt... Đạng lưu ý rằng
đường làng ngõ xóm ở đây khá sạch sẽ và ít bị lấn chiếm, tuy nhiên
nguy cơ ô nhiễm môi trường vẫn đang đe doạ trước sự bùng nổ dân số và
công nghiệp hoá.
Lược sử
Ngày xưa, Canh Nậu gồm những gò đống không cao, phía dưới
là những bãi trũng, lầy, cỏ dại lau lạch, các ngòi rãnh nước chằng chịt. Trải
qua nhiều thế kỷ khai phá, người dân đã tạo nên những đồng ruộng bằng phẳng.
Tên Nôm của xã là Kẻ Núc, sau đặt tên chữ là Canh Nậu với nghĩa CANH 畊
là "cày", NẬU 耨 là "bừa". Ngoài nghề
nông, gần đây Canh Nậu còn nổi tiếng bởi nghề mộc.
Thời Nguyễn, xã Canh Nậu thuộc tổng Hương Ngải, huyện Thạch
Thất. Năm 1945 được sáp nhập với các xã trong tổng Hương Ngải cũ thành khu
Hương Ngải. Đầu tháng 4-1948, thôn Hương Ngải được tách ra thành một xã riêng;
còn 3 làng Canh Nậu, Dị Nậu, Bến Thôn lập thành một xã mang tên Lam Sơn. Tháng
5-1955, thôn Canh Nậu lại được tách khỏi Lam Sơn và trở thành một xã riêng với
cái tên ban đầu là xã Canh Nậu.
Nghi môn đình Canh Nậu.
Đình làng Canh Nậu được khởi dựng vào thế kỷ XVII dưới
thời Lê Trung Hưng. Trong đình thờ Thành hoàng bản thổ, thần Quy Hải Long
vương, Ả Lã Nàng Đê — nữ tướng thời Hai Bà Trưng; Lý Phục Man — võ tướng thời
Lý Nam Đế; Đỗ Viện — thái thú quận Giao Chỉ thời nhà Tấn.
Kiến trúc
Đình làng Canh Nậu toạ lạc trên một mảnh đất cao, mặt
quay về phía đông-nam. Trước cửa đình là một ao nước hình chữ nhật.
Giữa ao có ụ đất tròn, xưa làm xới vật, nay để hoang.. Nghi môn mới xây
gồm 4 trụ biểu, có đắp các câu đối chữ Hán, hai bên sân là hai dãy
tả, hữu mạc nằm đối diện. Cuối sân lại có tam quan và hai cửa nách
để ngăn cách với khu đình trong,.
Tam quan gồm 3 gian, cửa gỗ, tường hồi bít đốc có 2
cột trụ nhỏ. Nhà tiền tế gồm 3 gian để trống làm thành hình
"chữ Nhất". Mái dựa trên 4 hàng chân, vì nóc giá chiêng, chủ yếu
bào trơn đóng bén. Đại bái rộng 5 gian 2 chái, kết nối
với hậu cung gồm 2 gian theo hình "chữ Đinh".
Hữu mạc và tam quan đình Canh Nậu.
Di sản
Đình Canh Nậu đã qua nhiều lần tu bổ. Trụ biểu và các
khung gỗ nói chung được trang trí đẹp. Các di vật và hoạ tiết hoa văn cho
biết đình được khởi dựng vào thế kỷ XVII rồi tôn tạo lớn vào thế kỷ XVIII—XIX
khá công phu. Bốn góc mái cong đao rồng, hoa chanh và các kiểu chữ “Thọ” cách
điệu.
Trên lớp kiến trúc ở vì nách gian giữa còn có bốn bức cốn gỗ
chạm trổ thời Lê, đề tài chủ yếu là hình rồng. Điều đáng lưu ý là hình tượng rồng
không dữ tợn mà đang vui đùa với các loài thuỷ tộc, ở một bức cốn khác rồng
đang đùa giỡn trên sóng và đùa giỡn với các chàng trai đóng khố, cởi trần đang
ngồi trên sóng nước mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII. Hiện vật cổ đáng
quý là một bát hương lớn thời Lê cao tới 32cm.
Tại hậu cung có đặt 5 cỗ long ngai bài vị chạm khắc cầu kỳ,
sơn son thiếp vàng, là nơi thờ 5 vị thành hoàng làng. Hàng năm xuân thu nhị kỳ
dân làng tổ chức lễ hội lớn vào tháng Hai và ngày 17 tháng Bảy âm lịch. Trong
dịp hội có đám rước, tế lễ, đánh vật và nhiều hoạt động văn hoá dân gian
khác.
Tại Quyết định số 1430/VH/QĐ ngày 12-10-1993 Bộ Văn hoá -
Thông tin đã xếp hạng ngôi đình là Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia.