Đình Chèm là ngôi đình của làng Chèm (tên chữ là Thụy Phương), nay thuộc phường Thụy Phương, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội. Đình thờ Thượng đẳng Thiên vương Lý Ông Trọng (Lý Thân hay Đức Thánh Chèm), một nhân vật huyền thoại và Hoàng phi Bạch Tĩnh Cung sống vào thời An Dương Vương.
Đình Chèm là một trong những ngôi đình được coi là cổ nhất
nước Nam và là một công trình kiến trúc có nghệ thuật chạm khắc độc đáo. Từ
ngàn năm nay, đình Chèm vẫn là nơi thờ cúng tín ngưỡng của người dân ba làng:
làng Hoàng, làng Mạc - (Liên Mạc) và làng Chèm - Thụy Phương, Từ Liêm, Hà Nội.
Truyền thuyết Đức Thánh Chèm
Lý Thân (Đức Thánh Chèm) sinh vào thời Hùng Duệ Vương, mất
vào thời Thục An Dương Vương. Thuở nhỏ ông là một cậu bé cực kỳ khôi ngô, có tầm
vóc cao lớn lạ thường. Lớn lên, Lý Thân văn giỏi, võ tài, tính tình hiếu nghĩa,
cương trực. Thời bấy giờ có giặc Ai Lao, Chiêm Thành và phía Bắc thường hay quấy
nhiễu biên thùy. Nhà vua xuống chiếu cầu người tài đức ra dẹp giặc cứu nước. Phủ
Quốc Oai bèn tiến cử Lý Thân. Ông lĩnh ý đi dẹp tan giặc, lập được nhiều công lớn.
Cuối đời vua Duệ Vương, đất nước Văn Lang bị quân Tần xâm lược,
ông hợp với Thục Phán cùng quân dân lạc Việt chống giặc hàng chục năm trời. Cuối
cùng giặc phải quay đầu bỏ chạy, Thục Phán lên làm vua lấy hiệu là An Dương
Vương.
Lúc bấy giờ khi nhà Tần bị giặc Hung Nô quấy phá. Tần Thủy
Hoàng đắp Vạn Lý Trường Thành mà không ngăn chống nổi bèn sai sứ sang cầu An
Dương Vương cho tướng tài sang giúp. Triều đình nhà Thục bèn cử Lý Thân sang
giúp nhà Tần để tạo mối bang giao giữa hai nước.
Tần Thủy Hoàng thử tài thấy văn đạt "Hiếu Liêm"
(tiến sĩ), võ đạt "Hiệu úy" (Tổng chỉ huy) bèn phong ông làm tư lệnh
Hiệu úy và nhờ Ông đi dẹp giặc Hung Nô, cho xuất 10 vạn quân trấn ải Hàm Dương.
Thắng trận trở về, vua Tần phong ông chức Phụ Tín Hầu và gả công chúa cho. Vua
Tần cũng ngỏ ý muốn giữ ông ở lại nước Tần nhưng ông đã từ bỏ vinh hoa phú quý,
đem theo vợ con trở về quê hương. Về nước, ông được vua Thục An Dương Vương
phong tước Đại Vương.
Để tưởng nhớ công đức của Đại Vương, dân làng lập đền thờ
ông tại Đình Chèm.
Không rõ đình Chèm được xây dựng lần đầu khi nào. Theo lời kể
của dân làng thì đình có niên đại cách đây hơn 2000 năm. Song hiện trong đình
chỉ lưu giữ được nhiều hình chạm khắc gỗ phong cách thế kỷ 18, có hai pho tượng
vợ chồng Lý Thân bằng gỗ sơn son thếp vàng tạc năm 1888. Hàng ngàn năm nay,
Đình Chèm vẫn ngự sát bên bờ sông Hồng nặng phù sa. Những mái cong của ngôi đình
được phủ lên một lớp rêu phong cổ kính.
Đình Chèm được xây dựng theo lối kiến trúc nội công ngoại quốc,
chắc chắn và công phu. Bên trong đình, các cột, mái được chạm trổ tinh vi; bên
ngoài có tam quan, 4 cột đồng trụ cổ kính. Gian trong cùng của ngôi đình có hai
bức tượng: tượng Thượng Đẳng Thiên Vương cao 2 trượng và bức tượng công chúa nước
Tần - Hoàng phi Bạch Tỉnh Cung cao trượng 8 có dư. Hiện ở Đình Chèm vẫn còn lưu
giữ chiếc lư hương ngàn năm tuổi rất quý hiếm...
Câu đối đình Chèm:
Tần quan lỵ chỉ Trung Hoa tướng
Việt điện nguy nhiên thượng đẳng thần
Dịch:
Điện Việt còn đây thần thượng đẳng
Ải Tần chốn đó tướng Trung Hoa.
Hoành phi đình Chèm: Uy Trấn Hoa Di.
Hoa Di thiết Hy, trong tên hiệu Hy Khang thiên vương của Lý
Ông Trọng. Chữ Khang tương đương với "trấn yên". Hy Khang là Uy Trấn
Hoa Di.
Câu ở tòa đại bái đình Chèm:
Thiên thùy nguyên tinh, Di Hạ lẫm hùng uy, đồng tượng thanh
cao Tần Bắc trấn
Địa lưu cố trạch, âm dương đồng hiển tướng, kim chương trù
điệp Việt Nam phong.
Dịch:
Trời buông khí nguyên, Di Hạ sợ hùng oai, tượng đồng thanh
cao trấn Tần Bắc
Đất lưu nền cũ, âm dương cùng hiện tướng, sách vàng dày chất
cõi Việt Nam.
Di Hạ thiết Dạ: chỉ người Dạ Lang, thực chất là người Hạ
(Hoa) ở cõi ngoài (di rời). Nói cách khác người Dạ Lang cũng là người Hoa Hạ.
Lý Thân là đại tướng của Tần Thủy Hoàng đã trấn giữ vùng đất
phía Tây Nam, nơi có người Hồ, Chiêm hay Hoa Di, Di Hạ - Dạ sinh sống.
Các vị thần được thờ phụng:
Thượng Đẳng Thiên Vương (Hy Khang Thiên Vương) Lý Ông Trọng:
thần chủ
Hoàng Phi Bạch Tĩnh Cung Công Chúa: con gái Tần Thủy Hoàng,
vợ của Thánh Chèm.
Ông Sứ: ân nhân của thánh Chèm, chữa bệnh cho Thánh, được phối
thờ ở gian bên phải tòa đại bái khi nhìn từ ngoài vào
Lục vị Thánh Vương tử: các con của Thánh Chèm, 4 trai, 2 gái
Làng Chèm nằm cạnh sông Hồng nên thường xuyên bị lũ lụt đe dọa.
Vào năm 1902, đình được kiệu lên cao thêm 2,4 mét chỉ bằng các dụng cụ của nhà
nông như: đinh bừa, quang gánh... Công việc diễn ra trong vòng một năm trời và
kết quả cực kỳ mỹ mãn.
Cả một ngôi đình nặng hàng trăm tấn toàn bằng gỗ quý với những
cột kèo phức tạp được "kiệu" lên cao ngang với mặt đê sông Hồng. Cuộc
kiệu đình này tốn hết 500 đồng tiền Đông Dương mà công xá ngày ấy chỉ có 7 xu một
ngày. Hiệp thợ kiệu đình do ông Vương Văn Địch ở làng Văn Trì chủ trì.
Bảng thông tin di sản của đình Chèm
Hội Chèm diễn ra từ ngày 14 đến ngày 16 tháng 5 âm lịch,
trong đó ngày 15 là ngày hội chính. Các nghi thức quan trọng của lễ hội đều được
tổ chức tại Đình Chèm. Nói là hội Chèm, song đây không phải là hội của duy nhất
làng Chèm, mà kỳ thực là của một cụm làng ven sông Hồng, vì ngoài làng Chèm còn
có các làng Liên Mạc, Hoàng Mạc cùng tham gia với tư cách là hai làng em.
Đáng xem nhất là lễ rước nước sáng ngày 15, có ba con thuyền
rồng của ba làng bơi ra giữa sông Hồng múc nước sông đổ vào chĩnh rồi biểu diễn
quay thuyền ba vòng trước khi bơi vào bờ.
Sau đó là đám rước nước vào đình. Đây là dấu vết của tín ngưỡng
thờ nước của người thời cổ. Đám rước cũng có nhiêu nghi thức cổ truyền đáng để
các nhà văn hoá học và dân tộc học quan tâm nghiên cứu. Và cuối cùng tại hội
này còn có cuộc thi thả chim bồ câu, các đàn chim bồ câu được thả cho bay lên
trời, thường là cao tới vài ngàn mét và nếu đạt được những quy định thì sẽ được
giải.
Đình Chèm không chỉ
là một công trình kiến trúc nghệ thuật cổ kính mà nó còn mang trong mình sự
tích về một vị tướng tài, đức có công dẹp giặc cứu nước.