Đình Cổ Mễ thuộc khu Cổ Mễ, phường Vũ Ninh, thành phố Bắc Ninh, thờ phụng thành hoàng làng là nhị danh tướng Trương Hống, Trương Hát, được gọi là Thánh Tam Giang, có công phò giúp vua Triệu Quang Phục (549-570) đánh giặc Lương vào thế kỷ thứ VI.
Làng Cổ Mễ là một làng cổ có từ lâu đời ở thành phố Bắc
Ninh, trước năm 1945 thuộc tổng Đỗ Xá, huyện Võ Giàng, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc
Ninh. Sau cách mạng Tháng Tám 1945, Cổ Mễ
thuộc xã Vũ Ninh, thị xã Bắc Ninh, nay là Khu Cổ Mễ, phường Vũ Ninh,
thành phố Bắc Ninh. Phía Đông và Bắc giáp Đáp Cầu và con sông Cầu, phía Tây và
Nam giáp thôn Phúc Sơn, Phương Vỹ và Thị Cầu.
Làng nằm ở phía Nam dãy núi Trâu Sơn dài hơn 1km, còn có các
tên gọi khác như núi Vũ Ninh, núi Đồn, cùng một dãy núi trong khu vực gồm nhiều
ngọn núi như núi Chùa, núi Hà Mã, núi Kho…
Đình làng Cổ Mễ dựng năm 1681, đời Vua Lê Hy Tông. Hiện đình
còn lưu giữ 11 đạo sắc phong do các triều Vua đời sau ban tặng, 7 tấm bia đá niên
đại các năm 1752, 1812, 1819, 1868, 1875, 1888. Hai tấm bia ghi chép thời gian
khởi dựng và trùng tu đình, các vị hậu thần đã cung tiến tiền và ruộng hậu cho
đình.
Đình Cổ Mễ nhìn hướng Đông Nam, trước đình là hồ tụ thủy.
Tòa đại đình mặt bằng hình chữ nhất (-), nhưng bờ nóc có hình chữ đinh (J) khi nhìn
từ trên cao xuống. Hậu cung được dựng ẩn ngay trong tòa đại đình, phần sau gian
chính điện được nâng thành gác lửng, đặt long ngai, bài vị Thành hoàng làng để
tạo sự tôn nghiêm.
Đình Cổ Mễ thờ hai vị tướng Trương Hống, Trương Hát, dân
gian gọi là Thánh Tam Giang, có công lớn giúp Triệu Quang Phục (549-570) đánh
giặc Lương vào thế kỷ thứ VI làm thành hoàng làng. Tương truyền các ngài đã hiển
linh phù giúp Thái úy Lý Thường Kiệt cầm quân phá tan quân Tống xâm lược vào
năm 1077. Làng cũng thờ một vị quan võ họ Nguyễn, người quê Thanh Hóa, có vợ
người làng Cổ Mễ làm hậu thần, từng giữ chức Hậu cần tiền đốc Tiến sỹ phục quốc
Thượng tướng công gia tăng bác quân Đô đốc phủ, Đô đốc thiêm sự, kiêm Quận công
Nguyễn tướng công, tự Phúc Hải thụy Trung tín phủ quân.
Đình Cổ Mễ bao gồm Nghi môn, sân đình và tòa đại đình, sau
này xây thêm hai dãy nhà tả vu, hữu vu mỗi dãy 3 gian.
Đình thiết kế kiểu 4 mái uốn đầu đao, bờ nóc đắp đôi rồng chầu
mặt trời, đầu bờ đắp con kìm ngậm bờ nóc. Trên góc khuỷu bờ chảy đắp lân múa,
các đầu đao trang trí hoa văn cách điệu và lân.
Tòa đại đình có kiến trúc theo phong cách thời Nguyễn 5 gian
2 dĩ, chiều dài 25,5m, chiều rộng 13,7m, hiên rộng 1,2m. Bộ khung đình gồm 8
hàng cột dọc, 6 hàng cột ngang với 2 cột cái, 2 cột quân và 2 cột hiên.
Gian chính điện rộng nhất, các gian bên tả hữu có diện tích
tương đương, kiểu đăng đối. Bốn cột cái ở gian chính điện lớn nhất, gọi là “tứ
trụ đình trung”.
Các cột hiên nối với cột quân bằng một cây kẻ, cột quân nối
cột cái bằng hệ thống rường, phần vì nóc phía trên câu đầu nối hai cột cái có
ba vì chồng rường tam, còn một vì ở bên phải xử dụng lối chồng rường kết hợp
giá chiêng.
Những tác phẩm điêu khắc, trang trí trên các cấu kiện kiến
trúc đình Cổ Mễ có từ khi dựng đình. Các mảng chạm khắc trang trí rất rực rỡ,
sơn son thiếp vàng trang nghiêm.
Bốn vì kèo ba gian (gian giữa và hai gian lân cận được chạm
nổi và chạm lộng rất công phu, với những hình tượng hiếm thấy ở các ngôi đình
khác. Những bức cốn của các gian bên đều là các mảng trang trí chính.
Bức cốn phần hậu cung hình chạm khắc thể hiện cả hai mặt (mặt
trước và mặt sau). Những hình tượng Vân long đại hội; Ngũ hổ tranh châu… với kỹ
thuật đục chạm tinh xảo, hồn nhiên, đường nét hình khối phóng khoáng thoải mái,
các hoạt cảnh cô tiên cưỡng rồng, múa hát hết sức sinh động, mặc những bộ xiêm
y diêm dúa, chau chuốt, tạo khối mềm dẻo, có chiều sâu tầng tầng lớp lớp…Những
tia mây lửa được bố trí nhịp nhàng như sóng nước, hình ảnh chạm khắc như kéo
dài ra vô tận.
Có những bức chạm không theo kiểu đăng đối, hình các mũi mác
được gắn liền vào thân rồng xuôi về phía sau, gây cảm giác như con rồng đang
bay về phía trước (ngược lại hình mũi mác).
Các gian bên cạnh chạm khắc nhiều hình tượng người, cách tạo
khối thoải mái tự do như cảnh trai gái khoác vai nhau đùa nghịch, trêu ghẹo
nhau rất vui nhộn, hóm hỉnh; Có bức chạm cảnh người cưỡi ngựa, bức chạm cảnh hầu
đồng; Lại có cả bức chạm sư tử đội thuyền, trên khoang thuyền có đoàn người
đang chèo thuyền. Đặc biệt có bức chạm đầu người một nam, một nữ nhưng thân
mình lại là hình chim.
Một số các bức chạm linh thú hòa quyện với cây cỏ, đan xen với
những đám mây kết hợp cùng các chữ
“Phúc”, “Thọ”… kỹ thuật chạm nổi, chạm lộng, chạm kênh bong, tạo khối đầy
đặn.
Chủ đề rồng được sử dụng phổ biến, đan xen, giao hòa với cỏ
cây, muông thú khác. Rồng được chạm khắc hòa quyện với người, thể hiện thế giới
tâm linh Tiên-Rồng.
Bức chạm Hầu đồng trên ván nong có bố cục rất chặt chẽ, sơn
son thiếp vàng, bao gồm cô đồng, các con nhang đệ tử, hai bên cung văn với nhạc
công đánh đàn, thổi sáo, tấu nhạc, mảng phụ là người đàn bà đang đội lễ, các
nhân vật được sắp xếp có chính, có phụ, tạo thành một bức tranh hoàn thiện, chặt chẽ mà rất bình dị.
Không gian của bức chạm là không gian ước lệ nên các động
tác, trạng thái của các nhân vật rất sinh động. Những tác phẩm điêu khắc trang
trí trên cấu kiện gỗ đình Cổ Mễ không những đạt giá trị nghệ thuật cao mà còn
là những tư liệu quí về nghi lễ, về y phục của người Việt xưa đối với những nhà
nghiên cứu dân tộc học, xã hội học.
Các bức chạm khắc đình làng, nhất là hình tượng con người
luôn luôn được nghệ nhân làm đình chủ động tạo hình bằng cách biến dạng hình thể,
nhân vật chính được phóng to, hình tượng nền nhỏ lại.
Hằng năm làng Cổ Mễ tổ chức lễ hội đình vào ngày mùng 10
tháng 8 âm lịch. Vào những dịp ấy, dân làng mang lễ vật đến đình thành kính
dâng hương, tế lễ Thành Hoàng, cầu mong Thần phù hộ độ trì cho mưa thuận gió
hòa, mùa màng sinh sôi nảy nở, quốc thái dân an, nhân khang vật thịnh, phát tài
phát lộc. Phần hội có nhiều trò chơi dân gian vui nhộn, đặc sắc nhất là hội hát
Quan họ rên sân đình, dưới thuyền trên mặt hồ tụ thủy.
Đình Cô Mễ được xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp
Quốc gia năm 1989.
Nguồn Cổng thông tin điện tử tỉnh Bắc Ninh