Đình Hoàng còn gọi là đình Cổ Nhuế (đình Chạ), đối diện ngõ 488 Trần Cung, phường Cổ Nhuế 1, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội thờ phụng Đông Chinh vương Lý Lực, hoàng tử thứ 3 triều vua Lý, có công dẹp giặc Văn Châu (Lạng Sơn) thế kỷ 11.
Đình Hoàng hay đình Chạ là đình thôn Hoàng của xã Cổ Nhuế,
bên trong thờ hoàng tử Đông Chinh vương. Tương truyền vào tháng Tám năm Đinh
Mão, niên hiệu Thuận Thiên thứ 18 (1027), Vương phụng chiếu vua cha là Lý Thái
Tổ đi dẹp giặc ở Văn Châu (Lạng Sơn). Vùng Cổ Nhuế lúc ấy nhà cửa còn đơn sơ,
dân cư thưa thớt nhưng đã nhiệt tình tiếp đón Ngài cùng đoàn quân trên đường ra
trận.
Đến tháng Hai năm 1028, Ngài thắng trận trở về, dân làng lại
ra đón rất thành kính. Khi vào triều, Ngài tâu với vua cha: “Đội ơn uy linh của
trời đất, quân đi đến đâu thắng đó. Phàm những nơi đi qua và trở về có người
dân ra đón hai bên đường, gồm 82 xã, đều muốn xin hoàng nhi làm phúc thần địa
phương”. Vua chấp nhận, xuống chiếu ban cho dân Cổ Nhuế 1600 mẫu ruộng và miễn
tô thuế.
Đến năm Thiên Thánh thứ hai, Hoàng tử nhờ thầy phong thuỷ
tìm được đất đẹp dựng chùa thờ Phật ở Cổ Nhuế. Thấy dân còn nghèo, công chúa thứ
tư là Tả Minh Hiền đã bỏ tiền riêng ra xây. Khi dựng xong, chùa được đặt tên là
Sùng Quang Tự (chùa Cả), dân làng xin thờ công chúa ở bên tả.
Cổ Nhuế ngày càng trù phú, dân cư đông đúc chia thành 2 phường
với 14 thôn, trong đó có 4 thôn cổ là Hoàng, Đống, Trù, Viên. Ngoài đình thôn
Hoàng còn có đình thôn Viên, đền Bà Chúa, với 3 ngôi chùa Sùng Quang, Trùng
Hưng và Anh Linh (chùa Bé) là những kiến trúc từ quá khứ xa xăm. Ngày
25-01-1994, Bộ Văn hóa và Thông tin đã xếp hạng đình Hoàng là Di tích kiến trúc
nghệ thuật quốc gia.
Làng Cổ Nhuế vốn là vùng đất cổ tên nôm Kẻ Noi, trải bao biến
động trong hàng nghìn năm vẫn để lại một vài di tích. Tư liệu lịch sử cho biết
đình Hoàng cũ được dựng từ đời Cảnh Hưng (1745) và đã qua tu sửa nhiều lần.
Tháng 3-1986 ngôi đình mới chuyển về địa điểm đối diện ngõ 488 phố Trần Cung để
nhường chỗ cho việc xây đường lên cầu Thăng Long.
Mặt đình hiện nay quay hướng đông-nam, nhìn qua sân rộng ra
tam quan xây kiểu nghi môn với các trụ biểu. Bên ngoài, trên tường phía trước
có đắp nổi tượng hai ông Hộ pháp đối diện đôi voi đá đứng trên bệ ở một cái sân
khác mở ra phố Trần Cung, ngay điểm dừng xe bus số 28. Nơi đây từng có cây cầu
đá bắc trên con lạch đổ ra sông Nhuệ, sau phải đặt cống ngầm để chảy qua dưới
sân đình và một số phố.
Cạnh bức tường bên hữu sau tam quan, dưới bóng cây là một
phương đình nhỏ với 4 trụ vuông có đắp các câu đối, rồi đến tòa đại bái 3 gian
2 chái, lắp cửa bức bàn, kết nối với trung cung và hậu cung thành hình chữ
“Công”. Hậu cung cao 2 tầng 8 mái, cổ diềm lắp chấn song con tiện lấy ánh sáng.
Phía tả hậu cung là một cái giếng đá sâu và khu phụ. Ở góc sân phía đông-bắc có
nhà tả mạc 3 gian, trong có bảng ghi sự tích và bia công đức gắn trên bức tường
áp lưng vào phố.
Ngoài các bức chạm khắc độc đáo, hiện trong đình Hoàng còn
có 17 đạo sắc phong từ thời Lê Trung hưng đến thời Nguyễn (Khải Định), 1 cuốn
ngọc phả, 4 bức đại tự, 1 đôi câu đối sơn son thếp vàng ca ngợi công đức nhà
Lý, 3 long ngai, 1 kiệu bát cống khắc chữ “Cảnh Hưng Giáp Thìn niên” (1784), 1
bộ sập thờ, 1 đôi voi đá, 1 quả chuông niên hiệu Thành Thái Kỷ Hợi (1899), 2 bộ
tam sự, 3 bát nhang và đồ sứ quý.
Đình thôn Hoàng và
các di tích tâm linh liên quan là nơi diễn ra một trong những lễ hội được cho
là lâu đời nhất trên đất Hà Thành, được tổ chức cứ 5 năm một lần 3 ngày liền từ
mùng 8 đến 10 tháng Hai âm lịch, kỷ niệm cuộc xuất quân dẹp giặc Văn Châu.
Ngoài lễ dâng hương tế thành hoàng và đám rước các kiệu Hoàng tử Đông Chính
Vương Lý Lực, phu nhân với Công chúa Tả Minh Hiến còn có nhiều trò chơi dân
gian như hát dân ca, quan họ, chọi gà, đấu cờ người, đua nấu chè kho, thi thợ
may giỏi…