Đình Đại Cát thuộc làng Đại Cát thờ phụng ba vị tướng tài thời Nhị vua Hai Bà Trưng là danh tướng Quách Lãng và nhị nữ tướng Đinh Bạch Nương, Đinh Tĩnh Nương.
Đình Đại Cát có từ thế kỷ 17, thờ phụng Tam vị danh tướng của
Nhị thánh Vương Hai Bà Trưng, được xếp hạng: Di tích quốc gia năm 1992. Địa chỉ
hiện nay ở phố Sùng Khang, phường Liên Mạc, quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội.
Tam quan nhìn từ sân đình Đại Cát
Lược sử
Thời Lê, Đại Cát thuộc huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn
Tây. Năm Minh Mạng thứ 13 (1831) thuộc tổng Hạ Trì, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức,
tỉnh Hà Nội. Năm 1905, thuộc phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông.
Cuối năm 1948, sáp nhập với Thượng Cát và Đông Ba thành liên
xã Tân Dân thuộc huyện Liên Bắc, tỉnh Hà Đông. Năm 1961, thuộc huyện Từ Liêm,
thành phố Hà Nội. Năm 1964, đổi tên thành xã Liên Mạc.
Tháng 12 năm 2013, xã Liên Mạc trở thành phường Liên Mạc,
quận Bắc Từ Liêm TP Hà Nội. Phường này nằm dọc theo bờ nam sông Hồng, được
giới hạn bởi tỉnh lộ 69 và sông Nhuệ, bao gồm các tổ dân phố: Đại Cát 1, Đại
Cát 2, Đại Cát 3, Yên Nội 1, Yên Nội 2, Yên Nội 3, Hoàng Liên 1, Hoàng Liên 2,
Hoàng Liên 3 và Hoàng Xá.
Sân đình Đại Cát. Panorama ©NCCong 2019
Đình Đại Cát tọa lạc ngay sát ngôi chùa Sùng Khang Tự,
hiện nay cả hai làm thành một cụm di tích có ngõ vào trên phố Sùng
Khang, cách trung tâm Hà Nội 17km. Cũng như đình làng Thượng Cát bên cạnh,
đình này thờ ba vị tướng tài thời Hai Bà Trưng là đức ông Quách Lãng và nhị nữ tướng
Đinh Bạch Nương, Đinh Tĩnh Nương.
Lễ hội đình làng Đại Cát diễn ra hàng năm vào ngày 10
tháng 3 âm lịch. Trong dịp hội này nhân dân và chính quyền sở tại còn tổ
chức thi bơi chải trên sông Nhuệ, sông Hồng và các trò vui chơi dân gian
truyền thống khác như chọi gà, hát đối... thu hút rất đông khách thập
phương đến tham dự. Ngày 31-01-1992 cụm di tích đình (và chùa) Đại Cát đã được
Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là Di tích kiến trúc - nghệ thuật quốc gia.
Kiến trúc và di vật
Rẽ từ phố Sùng Khang vào ngõ chùa khoảng trăm bước,
ở bên trái đầu tiên ta thấy tam quan của Sùng Khang Tự và tiếp theo
khoảng 50 bước nữa là nghi môn của đình Đại Cát gồm 4 trụ biểu nhìn
ra một hồ nước nhỏ. Sau nghi môn là lối đi giữa lùm cây xanh dẫn đến
cổng tam quan nội của đình, nơi có ba cửa gỗ và những câu đối chữ
Hán.
Du khách bước qua cổng tam quan sẽ thấy phía bên trái
có cây đa cổ thụ và bên phải là nhà bia liệt sĩ xây như một phương
đình nhỏ kiểu 2 tầng 8 mái. Tiếp theo có một sân rộng, ở cuối sân là
toà tiền tế và hai bên là dãy nhà tả, hữu vu 5 gian. Toàn bộ các công
trình kiến trúc đều mới được đại trùng tu gần đây. Khuôn viên của
đình khá rộng và có tường bao quanh, phía sau có một cổng hậu ở bên
trái ăn thông sang ngõ chùa.
Toà tiền tế gồm 3 gian với 4 hàng cột lim nhìn về
hướng tây. Hai bên tường hồi có cửa ngách, mặt trước và mặt sau để
trống. Sau toà tiền tế là giếng trời và toà trung đường 5 gian cửa
bức bàn. Hậu cung sâu 2 gian 1 dĩ kết nối với trung đường theo hình chuôi
vồ. Toàn bộ các mái đều làm theo kiểu cũ, các góc có đầu đao cong
vút đắp hình rồng.
Bên trong toà tiền tế và cung cấm hiện còn lưu giữ được
nhiều cổ vật quý như: chuông đồng, lộ bộ, long ngai, bài vị, hoành phi, câu
đối chữ Hán, một bộ áo long cổn, một tấm nghi môn và choé sứ đời Thanh ghi
niên đại thế kỷ XVIII.
Đại Cát xưa có tên là Hạ Cát, nằm trong vùng Kẻ, cùng với
hai làng Thượng Cát và Đống Ba. Theo lưu truyền dân gian, tên “Hạ Cát” liên
quan đến sự kiện Triệu Quang Phục và Lý Phật Tử sau một thời gian tranh chấp
không phân thắng bại, vào năm 577 đã lấy bãi Quân Thần châu, vạch một đường thẳng
về phía Đông làm ranh giới phạm vi cai quản.
Phía trên đường ranh giới ở bãi Quân Thần Châu là Thượng
Cát, thuộc quyền cai quản của Triệu Quang Phục. Phía dưới là Hạ Cát, thuộc đất
của Lý Phật Tử. Đường gianh giới phân chia “nước” đó chính là đường 70 từ đê
Thượng Cát về Hà Đông – Văn Điển hiện nay.
Đến đời Tây Sơn, làng Hạ Cát đổi tên thành Đại
Cát, với nghĩa có nhiều may mắn, tốt lành trong cuộc sống. Làng thuộc diện đông
dân trong vùng (năm 1926 có 1250 người).
Từ đầu thế kỷ XIX, Đại Cát cũng là một xã thuộc tổng Hạ Trì,
huyện Từ Liêm. Trong kháng chiến chống Pháp, làng nằm trong xã Tân Dân. Từ sau
Cải cách ruộng đất, thuộc xã Tân Tiến, ngày nay là xã Liên Mạc.
Là làng đông dân, nhưng Đại Cát lại có rất ít ruộng, chỉ có
209 mẫu. Do nằm ven sông Hồng, nên ruộng đất của làng thường xuyên bị nước lũ
đe dọa. Dân làng còn lưu truyền về những trận vỡ đoạn đê ở địa phận làng liên
tiếp xảy ra từ năm 1767 đến 1800. Có năm bị lở, mất hàng trăm mẫu đất.
Ngoài làm ruộng, dân làng có nghề làm đậu phụ, nấu rượu,
nhưng thu nhập không được là bao nên xưa kia, thường xuyên có đến một phần ba số
lao động của làng phải đi các nơi làm ăn.
Đại Cát còn ngôi đình Chải được dựng vào thời Lê, kết cấu chữ
“Nhị”. Đình thờ các vị thần chung với hai làng Thượng Cát và Đống Ba (Quách
Lãng cùng hai người em gái con cô con cậu là Đinh Bạch nương, Đinh Tĩnh nương)
là các tướng của Hai Bà Trưng. Sở dĩ gọi là đình Chải vì bãi trước cửa đình là
nơi tập trung để mở hội bơi chải trên sông Hồng.
Theo lệ, vào ngày 10 tháng Ba, trai đinh của làng chia làm bốn
phiên, mỗi phiên 32 trai đinh bơi một chải bảy gian, mỗi gian dài hai mét, bơi
từ bến cửa đình lên đoạn sông trước cửa đình Thượng Cát, rồi quay xuống đoạn
sông thuộc địa phận làng Yên Nội và trở về đình.
Bơi chải để diễn lại cảnh hai bà Đinh Bạch nương, Đinh Tĩnh
nương rèn quân thủy chiến xưa kia; vừa để rèn sức, luyện tài.
Làng Đại Cát còn có danh tướng Tạ Vĩnh Gia, một trong
những nữ tướng tài giỏi của Nhị vua Hai Bà Trưng. Năm 20 tuổi, nghe tin Nhị
chúa Mê Linh Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, bà đã chiêu mộ được hơn 2000
nghĩa sĩ trong vùng rồi lên Hát Môn gia nhập đại quân của Nhị chúa Hai Bà Trưng.
Khi Mã Viện trở lại xâm lược, nữ danh tướng Tạ Vĩnh Gia chiến
đấu dũng cảm, hy sinh anh dũng tại trận tiền, được dân làng Chu Phan (huyện Mê
Linh, tỉnh Vĩnh Phúc) và làng Yên Châu (huyện Đan Phượng) thờ phụng.
Đình làng Chu Pha, nơi thờ phụng nữ danh tướng
Tạ Vĩnh Gia
Lệ tục của làng Đại cát trước Cách mạng cũng rất nặng nề.
Làng có tám giáp. Mỗi năm mỗi giáp có một người làm lềnh, phải nuôi một con lợn
từ 50 kg trở lên, cùng số gạo nếp để giã bánh dày, nấu chè kho, rồi rước lên
đình lễ thánh vào dịp mồng 10 tháng Giêng. Tại đình có cuộc thi bánh dày, chè
giữa tám người lềnh. Vì thế, người đến lượt gánh lễ phải thuê, nhờ người làm rất
tốn kém.
Thời Tây Sơn, Đại Cát là nơi đóng của một đạo quân Tây Sơn
do tướng Vũ Văn Nhân chỉ huy, từ đây hành quân vào đánh quân Mãn Thanh Xuân Kỷ
Dậu (1789). Về sau, ông được phong Đại Tư đồ, khi Đại Cát bị vỡ đê, ông cho
lính cùng dân làng hàn lại đê, lại cho dân làng lương thực, tiền, thuốc. Khi
Gia Long chiếm được Thăng Long, Vũ Văn Nhân bị bắt và chém, dân làng Đại Cát đã
bí mật thờ ông.
Thời hiện đại, từ năm 1941, Đại Cát là nơi ăn nghỉ, hoạt động
của một số cán bộ Trung ương. Trong các cuộc kháng chiến, 28 người con của làng
đã hy sinh vì nền độc lập tự do của Tổ quốc.
Tiến sĩ Bùi Xuân Đính