Đình Đại Lan thờ phụng là tam vị đại vương: Linh Hồ, Minh Chiêu và Chà Mục, tham gia đánh giặc Thục thời Hùng Nghi Vương. Tướng Linh Hồ được phong là Tiền bộ tướng quân, Minh Chiêu là Tả bộ đô chiêu sứ, Chà Mục là Hữu bộ đô chiêu sứ, đánh bại quân xâm lược Tây Thục.
Nằm về phía nam cách trung tâm Hà Nội khoảng 15 km có một cụm
di sản văn hóa đã được xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia
năm 1989, đó là đình và chùa Đại Lan, thuộc thôn Đại Lan, xã Duyên Hà , huyện
Thanh Trì, thành phố Hà Nội.
Đình làng Đại Lan có từ thế kỷ 17. Thờ thành hoàng:
Linh Hổ, Minh Châu, Chà Lục và Nguyễn Như Đổ. Xếp hạng: Di tích lịch sử - văn
hóa quốc gia (1989). Địa chỉ: thôn Đại Lan, xã Duyên Hà, huyện Thanh Trì, Hà
Nội.
Cụm di tích được xây dựng trên khu đất cao của xóm Nghè,
phía đầu làng Đại Lan, gồm đình, nghè, và chùa để thờ thần, Phật theo tín ngưỡng
tôn giáo truyền thống. Các hạng mục của kiến trúc được xây dựng sát nhau theo
chiều ngang với ngôi chùa nằm ở bên cạnh đình, trông về hướng tây, phía sau là
dòng sông Hồng.
Niên đại khởi dựng đầu tiên của những hạng mục kiến trúc này
hiện nay chưa xác định rõ. Theo truyền thuyết và những di vật hiện còn tại di
tích đã khẳng định niên đại ra đời của cụm di tích ở các thời Lê- Nguyễn.
Tuy nhiên, xưa kia làng Đại Lan nằm sát sông Hồng, do sông Hồng
thay đổi dòng chảy nhiều lần ảnh hưởng đến đời sống dân cư cũng như các công
trình tôn giáo, tín ngưỡng nên làng dần dịch chuyển.
Cứ mỗi lần di chuyển, các kiến trúc văn hóa, tôn giáo của
làng lại theo chân con người đến nơi ở mới và lần dịch chuyển cuối vào năm
1959, các di tích được chuyển vào sâu trong xóm Nghè, tức vị trí hiện nay.
Hiện nay, đình Đại Lan còn lưu giữ và bảo tồn được thần phả,
sắc phong ghi chép về việc tôn thờ tứ vị thành hoàng làng gồm: ba vị Thành
hoàng làng thời Hùng Vương có công trong việc bảo vệ nước Văn Lang và vị Thành
hoàng là Bảng nhãn Nguyễn Như Đổ- người con của làng ở thời Lê Sơ cùng 18 vị
khoa bảng ở địa phương và bà chúa Dâu Tằm.
Xưa kia, mỗi vị đều có nơi thờ phụng riêng. Nhưng sau này,
trải qua nhiều thời kỳ biến động, nên các vị Thành hoàng đã được nhân dân rước
về thờ phụng tại đình và chùa.
Theo thần phả, Thành hoàng làng Đại Lan thờ phụng là tam vị
đại vương: Linh Hồ, Minh Chiêu và Chà Mục, sống dưới thời Hùng Nghi Vương. Từ
nhỏ, ba vị đều thông minh, tài trí hơn người. Lớn lên đất nước có giặc Tây Thục
xâm phạm, ba anh em đã đầu quân vua Hùng Duệ Vương đi đánh giặc. Linh Hồ được
phong là Tiền bộ tướng quân, Minh Chiêu là Tả bộ đô chiêu sứ, Chà Mục là Hữu bộ
đô chiêu sứ. Sau ba ngài lập được công lớn, đánh tan giặc Thục, Tiền bộ được
phong là Thiên sách Hữu lạc hầu. Sau ngày hóa, ba vị được phong là Thượng đẳng
phúc thần ghi trong điển lễ. Các đời vua sau này đều có sắc phong.
Theo
bản thần tích, thân phụ của ba vị thần họ Trương, tên húy là Long, ngụ tại
hương Lưu Xá, huyện Thượng Hiền, phủ Nghĩa Hưng. Ông bà làm nghề đánh cá, vì muộn
con, đi cầu tự ở chùa Sài Sơn, khi về bà mang thai sinh con trai là Linh Hồ.
Linh Hồ là con bà cả, còn Minh Chiêu và Chà Mục là con bà thứ.
Lớn
lên, ba vị đều thông minh, khỏe mạnh hơn người. Bấy giờ có người Tây Thục đem
quân xâm chiếm Phong Châu, vua Hùng ban chiếu tìm tướng tài giỏi, ba vị ra ứng
tuyển và đều được vua trọng dụng. Linh Hồ được phong là Tiền bộ trưởng tá quan,
Minh Chiêu là Tả bộ trưởng tá quan, Chà Mục là Hữu bộ trưởng tá quan.
Khi
đức ngài Linh Hồ dẫn quân tiến đến sông Lô thì bị quân Thục vây chặt. Quân thiếu
lương ăn, bị ốm đã năm ngày, trước tình thế nguy cấp, Linh Hồ bèn ngửa mặt lên
trời, kêu rằng: “Nếu như nước Nam còn thì trời đất thần linh nước Nam hãy giúp
cho quân thắng trận; nếu như nước Nam phải nhập với Bắc quốc thì quyết sống mái
một trận”.
Chỉ
trong khoảnh khắc, bỗng thấy mẹ con con bò từ trên núi lao thẳng xuống. Tiền bộ
tá quan vắt sữa để quân uống. Tự nhiên, binh lính phấn chấn hẳn lên. Trong nháy
mắt, mẹ con bò thần biến mất. Sau đó, có quân tiếp viện tới, hai bên giao tranh
dữ dội, quân Thục tan vỡ. Thừa thắng, quân ta tiến đến cửa trại giặc, quân Thục
bị dẹp hết. Nước Văn Lang lại ca khúc khải hoàn. Sau này, nhớ Thần Bò giúp trận,
dân làng thấy thịt bò đều không ăn.
Khi
ba vị thần tướng mất, vua Hùng nhớ công ơn đã phong thần ban sắc cho dân các
trang ấp thờ phụng, ghi vào điển lễ của triều đình. Các triều đại sau đều có sắc
phong: Thời Lê 9 đạo, thời Tây Sơn 3 đạo, thời Nguyễn 6 đạo.
Nguyễn Như Đổ tên chữ là Mạnh An, hiệu Khiêm Trai, sinh năm
Giáp Thìn 1424 tại thôn Đại Lan. Ông là người đức trọng, tài cao. Năm 18 tuổi,
ông đỗ Bảng nhãn khoa thi Đình năm Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo năm thứ 3
(1442).
Sau ngài di cư sang thôn Tử Dương (làng Tía), huyện Thượng
Phúc, nay thuộc xã Tô Hiệu, huyện Thường Tín. Ông làm nhiều thơ nhưng chỉ còn
lại 6 bài chép trong Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn. Thành phố Hà Nội hiện có
phố Nguyễn Như Đổ ở quận Đống Đa.
Trong khoa thi này, ông đỗ cao thứ hai sau Trạng Nguyên Nguyễn
Trực. Nguyễn Như Đổ đã ba lần đi sứ, làm quan đến chức Thượng thư, được gia
phong Thiếu bảo Lan quận công. Cuối đời, Nguyễn Như Đổ về vị trí ở Từ Dương, thọ
102 tuổi.
Bình luận về ông, nhà bác học Phan Huy Chú viết: “ Ông lúc
trẻ thi đỗ Khôi nguyên, khi lớn làm quan to, nên được cõi thọ trăm tuổi, trải
qua tám triều, cũng là sự ít có trong hoạn đồ”.
Đối với quê hương, Nguyễn Như Đổ rất mực trân trọng ưu ái,
Khi đỗ tiến sĩ, được vua ban áo mũ, ông đã về làng vinh quy, 18 năm sau khi được
phong Lại bộ Thượng thư, ông đã về đình làng tạ thần và cung tiến đôi câu đối.
Qua thời gian tồn tại và thăng trầm của lịch sử, di tích
đình Đại Lan bị xuống cấp nghiêm trọng. Năm 2007 được sự quan tâm của Ủy ban
nhân dân huyện Thanh Trì, chính quyền và nhân dân thôn Đại Lan xã Duyên Hà,
đình được đầu tư kinh phí tu bổ, tôn tạo bằng nguồn ngân sách và xã hội hóa.
Kiến trúc
Đình nằm ở sát bên trái toà tam bảo của ngôi chùa làng.
Cả hai cùng nhìn về phía tây-nam và được xây cùng lúc với mặt bằng
gần như giống hệt nhau. Du khách leo 7 bậc lên tới hiên đình gồm 6 cột
tròn nhỏ nhưng cân đối. Tiền tế rộng 3 gian 2 chái, kết nối thành hình
chuôi vồ với hậu cung rộng 3 gian sâu 2 gian. Mái đơn giản, trên bờ nóc
có đắp hình lưỡng long triều nguyệt.
Đình Đại Lan gồm các đơn nguyên kiến trúc Đại bái và Hậu
cung kết cấu theo kiểu chữ Đinh. Từ mặt sân bước lên năm bậc thềm là
tới tòa Đại bái.
Tòa Đại bái đình Đại Lan được chia làm ba gian hai dĩ với bốn
mái đao cong, bờ nóc đắp lưỡng long chầu hổ phù đội mặt trời cách điệu, hai đầu
bờ nóc là hai con rồng (Makara) ngậm bờ nóc, các mái đao được đắp đầu rồng cong
hướng vào đình.
Vào bên trong các bộ vì đỡ mái được làm theo kiểu thượng
giá chiêng rường nách, hạ cốn, bẩy hiên, bẩy hậu trên mặt bằng bốn
hàng chân cột. Trang trí trên kiến trúc tại đình Đại Lan chủ yếu tập trung vào
các đầu dư, cốn chạm rồng, tứ linh, tứ quý là các đề tài quen thuộc trong kiến
trúc tín ngưỡng dân gian truyền thống.
Nền các gian bên nhà Đại bái được tôn cao 20 cm để làm chỗ
ngồi mỗi khi có việc làng, gian giữa được xây cao khoảng một ô chiếu để dùng
vào việc hành lễ. Tuy kiến trúc muộn, song sự sắp đặt các di vật trong đình vẫn
theo những quy tắc truyền thống, đem lại vẻ cổ kính và trang nghiêm cho ngôi
đình.
Tại nhà Đại bái là đại tự, câu đối sơn son thếp vàng
như: uy chấn hà phương (Uy chấn phương xa), Bảo quốc an
dân (Bảo vệ đất nước, giữ yên cho dân)…và nhiều hương án được chạm khắc
tinh xảo, lộng lẫy với đề tài tứ linh, tứ quý…
Đáng chú ý là hoành phi lớn dạng cuốn thư, bên dưới là cửa
võng chạy suốt gian nhà, đây là hai di vật được trang trí bằng kỹ thuật chạm thủng,
sơn son thếp vàng. Rồng chầu mặt trời, rồng cuốn thủy, long mã tranh châu…..được
trang trí ở diềm bức hoành phi.
Phần trên cửa võng là đôi rồng lớn chầu mặt hổ phù, hai bên
trang trí các hình rồng phun nước, phượng, long mã…bên dưới hai hiện vật này là
một phương án gỗ được trang trí tỉ mỉ bằng kỹ thuật chạm nổi các hình rồng lá
cách điệu chầu hổ phù, chính giữa là rồng, phượng, hướng về hình mặt trời ở giữa…
Chính điện có bức hoành phi làm theo dạng cuốn thư treo
trên một cửa võng được đục chạm tinh xảo. Các mảng trang trí ở đó đều thể
hiện những đề tài chạm khắc truyền thống: lưỡng long triều nhật, rồng cuốn thủy,
long mã tranh châu, phượng múa… Phía dưới là một hương án với những mảng điêu
khắc kín xung quanh diềm. Hai gian bên có treo hoành phi trên lối vào cung
cấm. Trong hậu cung có một khám lớn, nơi đặt long ngai và bài vị của 4 thành
hoàng.
Hậu cung là một nếp nhà dọc ba gian mái lợp ngói mũi, phía
trước có hệ thống cửa ngăn cách với Đại bái, chính giữa được xây bệ thờ trên đặt
một khám lớn đặt long ngai, bài vị của các vị Thành hoàng làng cùng các đồ thờ
tự khác.
Mặt trước của khám được trang trí đậm đặc các đề tài truyền
thống như hổ phù, rồng, hoa cúc, tứ linh, tứ quý, hoa dây…đây là một trong những
di vật có giá trị nhất trong đình.
Tại đình còn bảo lưu được nhiều di vật quý, như 11 đạo sắc
phong từ triều Lê đến triều Nguyễn, và các cuốn thư, cửa võng, long ngai, bài vị,
hương án, án văn, nhất là bốn bộ kiệu được làm từ thế kỷ XVII-XVIII.
Đồ gốm sứ gồm hai bát hương gốm thời Lê – Mạc thế kỷ XVII, một
chóe sứ thế kỷ XVIII, đôi lọ sứ thời Thanh…Đây là nguồn tư liệu quý giá giúp
cho việc tìm hiểu về lịch sử ngôi đình và đời sống vật chất tinh thần của một
làng quê truyền thống, minh chứng cho bề dày của vùng đất cổ ven sông Hồng.
Đình Đại Lan là một di tích có giá trị nhiều mặt, đã được Bộ
Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng là di
tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia năm 1989.
Nguồn: Cổng TTĐT Huyện Thanh Trì, Lại Thị Hồng Nguyên -
Phòng VH&TT.
Hà Nội 360.