Ngôi đình làng Đại Mỗ muộn nhất cũng được xây vào đầu thế kỷ 18, bên trong thờ Đức Thủy Hải Long Vương, Ả Lã Nàng Đê, danh tướng của Nhị vua Hai Bà Trưng và tam vị thành hoàng khác, ở xóm Ngang, phường Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
Tên nôm vùng này là Kẻ Mỗ, gốc từ chữ Mụ. Đất Mỗ có lịch sử
hơn 2000 năm; dưới thời Hùng Vương còn ở ven biển, dần dần cát bồi, rừng phủ
kín. Năm 557 Lý Phật Tử từng ngự quản ở đây. Năm 621, nhà Lương lập huyện Từ
Liêm. Đến cuối thời Lê, Kẻ Mỗ cùng 3 làng Ngọc Trục, Giao Quang, An Thái đều
thuộc xã Thiên Mỗ, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây.
Sang thời Nguyễn, tổng Thiên Mỗ được lập, sau lại đổi thành
tổng Đại Mỗ; gồm 7 xã, thôn: Thiên Mỗ, Tây Mỗ, Vạn Bảo (Giao Quang bây giờ), Mộ
Lao, Ngọc Trục và Hồng Đô, Phùng Quang (Trung Văn). Năm 1831, tổng thuộc huyện
Hoài Đức, phủ Hoài Đức, từ tỉnh Sơn Tây chuyển sang Hà Nội. Năm 1888, phủ Hoài
Đức cắt về Hà Đông, sau đó dù có nhiều thay đổi nhỏ nhưng xã Đại Mỗ vẫn thuộc tỉnh
này.
Xã Đại Mỗ từ ngày 19-2-1964 thuộc về huyện Từ Liêm, ngoại
thành Hà Nội. Rồi ngày 1-4-2014 trở thành phường Đại Mỗ, thuộc quận Nam Từ
Liêm. Vị trí: phía bắc giáp phường Phú Đô và Mễ Trì; phía tây giáp phường Tây Mỗ;
phía đông giáp phường Vạn Phúc; phía nam giáp phường Dương Nội. Diện tích 498
ha, dân số 26.741 người, mật độ 5.368 người/km², chia thành 9 xóm.
Xã có đến 12 di tích quốc gia. Ngôi đình làng Đại Mỗ tọa lạc
tại xóm Ngang, trong thờ 5 thành hoàng gồm: Đức Thủy Hải Long Vương, Ả Lã Nàng
Đê (1 nữ tướng của Hai Bà Trưng được thờ ở rất nhiều nơi) và tam vị Đại vương họ
Nguyễn tức ba cha con, ông cháu của tể tướng Nguyễn Quý Đức (1648-1720). Cả 5 vị
này đều được thờ ở các làng thuộc xã Đại Mỗ cũ.
Dáng vẻ hiện nay của đình Đại Mỗ mang phong cách nghệ thuật
kiến trúc thời Nguyễn sau nhiều lần trùng tu. Hai bên đình là hàng cây ven 2 ao
nhỏ và ở hướng nam phía trước mặt có một hồ nước hình chữ nhật với chiếc cầu bắc
ra đảo nhỏ dưới bóng cổ thụ. Cổng đình xây kiểu nghi môn với 4 cột trụ cao to
và 2 cửa phụ mở ra đường làng rộng rãi.
Sau cổng đình là sân gạch lớn đưa du khách đi thẳng đến 2
dãy giải vũ 3 gian 2 chái, nay dùng làm nhà văn hóa, nơi thường tổ chức tập múa
hát dân gian. Cuối sân có bậc đá dẫn lên thềm đình. Đình gồm tiền đường 5 gian
để mở, kiểu 2 tầng 8 mái, được xây song song theo hình “chữ Nhị” với trung đường
5 gian 2 dĩ, cửa gỗ bức bàn. Hậu cung nhỏ hơn ở phía sau, kết nối với trung đường
thành hình chuôi vồ. Điều đặc biệt là ở mỗi cây cột từ ngoài vào đến trong đình
đều có ít nhất một câu đối.
Hội đình làng Đại Mỗ được tổ chức hàng năm từ ngày 10 đến 11
tháng giêng âm lịch. Theo truyền thống, mở đầu là lễ rước kiệu đến đền Hàm Rồng
để nghinh thỉnh thánh về tế lễ tại đình, cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận
gió hòa, mọi nhà ấm no hạnh phúc. Sau đó diễn ra nhiều trò chơi dân gian như:
đánh đu, bịt mắt bắt lợn, kéo co, bắt vịt và hát múa v.v…
Đền Hàm Rồng tọa lạc ở phía đông tại một khu đất cao rộng
trên mặt đê, thuộc làng Giao Quang tức Kẻ Quánh. Trước cửa đền là nơi hợp lưu của
dòng sông Nhuệ và ngòi Tùng Khê. Sau đền có cây cầu đá Thiên Khánh bắc qua con
ngòi nên còn gọi là Cầu Đá hay Cầu Ngòi. Đền xây từ lâu đời, bên trong thờ đức
Thủy Hải Long Vương và Ả Lã Nàng Đê. Xung quanh đền có nhiều cổ thụ, một cây duối
nghe nói đã gần 600 năm tuổi mà hiện vẫn xanh tốt.
Ngày 21-6-1993 đình (và chùa) làng Đại Mỗ đã được Bộ Văn hóa
và Thông tin xếp hạng Di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật quốc gia.