Ngôi đình và ngôi đền làng Định Công Hạ làng Định Công hạ, phường Định Công, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội thờ phụng hai vị Thành hoàng là chàng Công Sơ thời Hùng Vương và Đoàn Thượng tướng quân thời Lý. Ngôi đền thờ bà Phương Nghi Hoàng Hậu, là mẹ của chàng Công Sơ.
Định Công là một trong những làng cổ của huyện Thanh Trì, có
lịch sử hình thành và phát triển lâu đời, là một trong những vùng đất cửa ngõ
phía Nam của thủ đô Hà Nội. Nơi đây cũng là một trong những địa danh cổ có nhiều
làng nghề truyền thống phát triển như nghề kim hoàn, nghề đóng giày…
Định Công có đá sập vàng
Đầm sen tắm mát, ngựa quan đi về
Làng Định Công xưa nổi tiếng hiếu học, có nhiều người đỗ đạt
cao như Bùi Xương Trạch (1438-1516), đỗ Tiến sĩ khoa Mậu tuất (1478) thời vua
Lê Thánh Tông, được cử đi sứ Trung Quốc, sau được thăng làm Thượng thư, Chưởng
lục bộ sư, Quốc tử giám Tế tửu, Tri kinh diên sự, Thái phó, tước Quảng Quốc
công. Đến cuối thời Lê có Bùi Huy Bích (1744-1818) thi đậu Hoàng giáp khoa thi
Kỷ sửu (1769), được thăng chức Hành Tham tụng, tước Kế Liệt hầu, sau thăng lên
Đồng bình chương sự kiêm Quyền Tham tụng…
Ngôi đình và ngôi đền làng Định Công Hạ thời Lê thuộc xã
Bình Liệt, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín; cuối thời Nguyễn thuộc thôn Hạ, xã
Định Công, tổng Khương Đình, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông; hiện tọa lạc tại số
16 làng Định Công hạ, phường Định Công, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội. Đây
là cụm di tích thờ thần Thành hoàng làng và thờ Mẫu có liên quan chặt chẽ với
nhau. Ngôi đình thờ hai vị Thành hoàng là chàng Công Sơ thời Hùng Vương và Đoàn
Thượng tướng quân thời Lý. Ngôi đền thờ bà Phương Nghi Hoàng Hậu, là mẹ của
chàng Công Sơ.
Thần phả làng Định Công kể về chàng Công Sơ rằng: vào thời
vua Hùng Vương thứ 17 là Hùng Nghị Vương vốn đức rộng, tài cao, chăm lo cho đời
sống của nhân dân nên thiên hạ được thái bình. Một hôm, ông cùng quân lính đi
săn bắn ở phủ Gia Lương thì gặp nàng Xuyến Nương vô cùng xinh đẹp, mắt phượng,
mày ngài, vua bèn lấy làm vợ.
Một lần, bà Xuyến Nương nằm mộng thấy một con rồng xanh, tâu
lên vua, vua liền bảo: nhà ta giống rồng thì nàng sẽ sinh ra thần thánh. Nàng
Xuyến Nương có mang, 14 tháng sau, vào ngày mùng 1 tháng Hai khi đang ngồi thuyền
rồng du ngoạn ở vùng Thanh Đàm (tức đất huyện Thanh Trì) chợt dừng ở bến nước cạnh
trang Đình Công, thấy hào quang toả sáng, Xuyến Nương sinh hạ được một người
con trai mặt mũi khôi ngô, tuấn tú. Gia nhân về tâu với vua, vua rất vui mừng,
ra lệnh đổi tên đất Đình Công thành Định Công như ngày nay.
Hoàng tử ra đời được 100 ngày thì đặt tên là chàng Công Sơ.
Năm 9 tuổi, Công Sơ đi học, 13 tuổi nổi tiếng về tài văn võ. Đến năm Công Sơ 16
tuổi, trời đại hạn, nhân dân nhiều nơi đói khổ, trộm cướp nổi lên, vua sai Công
Sơ đi tuần tra trấn giữ, lập đàn tràng làm lễ cầu mưa. Công Sơ đi đến đâu thì
cuộc sống ở đó trở nên yên ổn, nhân dân ấm no, người người phấn khởi, tin yêu.
Chàng Công Sơ về sau đã nhiều lần tỏ rõ tài năng giúp dân
giúp nước, được ban tặng nhiều chức tước. Sau khi mất, được vua phong cho làm
Thượng đẳng phúc thần và lập đền thờ tự tại Hoàng cung. Riêng với trang Định
Công, cho trùng tu cung miếu, xuân thu nhị kỳ hàng năm các quan đến làm lễ.
Cũng theo thần phả làng Định Công thì vào thời vua Lý Cao
Tông, ở vùng Hồng Châu, trấn Hải Dương có ông tên là Đoàn Hiền, vợ là Trương Thị
Thưởng vào ngày mùng 2 tháng Hai năm Bính thìn sinh được một người con trai đặt
tên là Thượng. Đến 8 tuổi thì đi học và học rất giỏi, đi 7 bước có thể làm một
bài thơ.
Ngoài ra Đoàn Thượng còn có tài võ nghệ, kiêm thông lục thao
tam lược. Năm 15 tuổi, cha mẹ đều qua đời, lúc đó nhà vua mở khoa thi chọn người
hiền tài giúp nước, Đoàn Thượng thi và đỗ đầu, được vua ban chức Tham nghị. Bấy
giờ ở châu Đại Man có giặc, vua phong cho Đoàn Thượng chức Thống chế nguyên
soái đại tướng quân đi dẹp giặc, bắt chém được tướng giặc. Vua mở tiệc khao mừng,
phong cho ông chức Binh bộ Thượng thư, Đốc bộ Hoan Châu.
Được 3 năm, thiên hạ thái bình, sau đó ông lại làm Đốc bộ
Sơn Nam. Lúc này ở trang Định Công có bệnh dịch, người vật chết nhiều, nhân dân
lo sợ ra đền Đông Hỷ làm lễ, được mộng báo phải mời ông Đoàn Thượng về làng thì
mới khỏi bệnh. Đoàn Thượng về làng ai ai cũng vui mừng đón rước, bệnh dịch theo
đó cũng tiêu tan.
Ông cho xây một am cung nơi chính quán để đi về nghỉ ngơi.
Khi vua Huệ Tông lên ngôi phong cho ông là: Tiết chế thuỷ bộ Đại tướng quân,
sau đó là Tổng quốc binh sự. Cuối thời Lý, nhà Trần mưu sự cướp ngôi, Đoàn Thượng
không thuần phục, ông liền đem quân về đất Hồng Châu xây đắp thành luỹ chống lại
nhà Trần, phù nhà Lý.
Vào ngày 20 tháng Giêng, Đoàn Thượng về trang Định Công,
truyền mở yến tiệc ăn mừng, ông nói: Việc đời ngày nay được, thua do trời định,
nếu thành công thì đã vậy, nếu thua thì nhân dân theo hiệu lệnh cũ, khắc thêm 2
chữ Đồng Hỷ để phụng thờ.
Nhà Trần giành ngôi nhà Lý, biết Nguyễn Nộn thân với Đoàn
Thượng nên sai lính dùng vàng mua chuộc Nguyễn Nộn giết Đoàn Thượng. Sang thời Lê sơ, khi Lê Lợi đánh giặc Minh đã
đến trang Định Công làm lễ cầu đảo, thần Công Sơ và Đoàn Thượng đều hiển linh
phù giúp. Lê Lợi lên ngôi phong cho các ngài là Thượng đẳng phúc thần. Các đời
vua sau đó đều ban sắc phong thần.
Ghi nhớ công ơn của hai vị phúc thần, nhân dân Định Công vào
ngày 12 tháng Hai hàng năm tổ chức lễ hội truyền thống để tưởng nhớ công lao của
các ngài.
Căn cứ theo thần phả thì ngôi đình và ngôi đền làng Định
Công hạ có lịch sử xuất hiện từ rất sớm. Theo trí nhớ và truyền miệng của người
dân Định Công từ nhiều đời nay thì đình và ngôi đền Định Công hạ là một trong
những công trình kiến trúc tín ngưỡng bề thế và đẹp nhất trong vùng, song dáng
vẻ kiến trúc hiện nay căn bản là sản phẩm kiến trúc thời Nguyễn và những lần
trùng tu gần đây.
Ngôi đình toạ lạc trên một thế đất đẹp ở trung tâm làng,
phía trước là hồ nước rộng, có nhiều cây cối xung quanh tạo cảnh quan, không
gian xanh mát. Đình Định Công hạ hiện đã được quy hoạch tốt, với các hạng mục
công trình đẹp, hợp lý. Từ hồ nước, qua một bức bình phong lớn là đến khoảng
sân ngoài được lát gạch bát mới, tiếp đó là nghi môn, trụ biểu.
Nghi môn đình Định Công Hạ khá lớn, mới được tu sửa gần đây
với hai trụ biểu lớn và hai trụ biểu nhỏ. Đỉnh trụ biểu lớn đắp tứ phượng chầu,
ô lồng đèn đắp nổi tứ linh, thân trụ soi gờ, kẻ chỉ, đắp nổi các đôi câu đối chữ
Hán, đế trụ thắt cổ bồng. Từ trụ biểu lớn qua một bức tường lửng là đến cổng
pháo nhỏ, dạng hai tầng bốn mái, qua một đoạn tường lửng nữa đến trụ biểu nhỏ,
đỉnh trụ đắp nghê chầu, ô lồng đèn đắp tứ quý, thân trụ soi gờ, kẻ chỉ, đắp nổi
câu đối chữ Hán:
屹 立 忠 貞 自 古 英 雄 丹 心 不 屈
表 揚 節 烈 至 今 慷 慨 青 史 長 留
Phiên âm:
Ngật lập trung trinh, tự cổ anh hùng, đan tâm bất khuất;
Biểu dương tiết liệt, chí kim khảng khái, thanh sử trường
lưu.
Dịch nghĩa:
Sừng sững trung trinh, tự cổ anh hùng, lòng son bất khuất;
Biểu dương tiết liệt, đến nay khảng khái, sử sách còn lưu.
Qua nghi môn là khoảng sân rộng, hai bên là tả, hữu mạc, mỗi
bên 3 gian. Trên sân, ở khoảng giữa sát với công trình chính có hai cây hương
đá và một lư hương đá mới, qua ba bậc thềm là tới hiên Đại bái. Ở về phái hai
bên bậc thềm có hai con lân sư đá mới, dáng vẻ oai dũng đứng canh gác.
Đại bái đình Định Công Hạ là một ngôi nhà ngang bề thế với 5
gian, 2 dĩ, hai mái chảy lợp ngói ri. Chính giữa bờ nóc là hình tượng lưỡng
long chầu mặt trời, bên dưới mặt trời là hình tượng hổ phù ngậm chữ thọ, phía hồi
nóc có hai con kìm hướng mặt vào nhau, cuối cùng là hai đấu đinh lớn, ngoài ra
còn có dải trang trí hình hoa chanh chạy suốt bờ nóc, bờ dải. Cuối bờ dải xây
giật nhất cấp. Từ cuối bờ dải, qua tường lửng là đến hai trụ biểu có kết cấu
tương tự trụ biểu lớn của Nghi môn.
Vào bên trong, các gian có diện tích không đều nhau, gian
chính giữa có diện tích lớn hơn cả. Tương ứng với 5 gian là 6 bộ vì trên mặt bằng
4 hàng chân cột. Các bộ vì được làm bằng chất liệu gỗ tứ thiết, theo kiểu “ thượng
chồng rường, giá chiêng, hạ kẻ ngồi, bẩy hiên ”. Bộ vì gian chính giữa với hai
đầu dư hình rồng được chạm khắc tỉ mỉ, rồng miệng rộng, ngậm ngọc, mũi hếch,
râu bờm uốn thành hình đao mác, mắt lồi... Các cấu kiện gỗ khác được chạm khắc
hình chữ triện và mây lá cách điệu, trong đó có các bức cốn lớn chạm các đề tài
rồng, long cuốn thuỷ… Hai thanh xà thượng chạm lộng hình đầu rồng. Hai cột quân
bên trong gian giữa là y môn gỗ chạm nổi lưỡng long chầu nguyệt và trúc hoá rồng.
Hậu cung là nơi thâm nghiêm nhất, được nối từ gian chính giữa,
kéo dài về sau với ba gian nhà dọc. Bộ vì được làm thống nhất theo kiểu chồng
rường con nhị . Phía trước cửa Hậu cung mở các cửa bức bàn gỗ, trên có trang
trí mặt hổ phù. Hai bên cửa Hậu cung có hai bức cốn chạm nổi hình đầu rồng.
Gian trong cùng Hậu cung là nơi đặt long ngai, bài vị của
Thành hoàng làng. Trang trí nội thất trong đình tuy có nhiều chi tiết mới song
căn bản vẫn giữ được vẻ trang trọng, tôn nghiêm cần có của một nơi thờ thần
Thành hoàng với tư cách là vị thần bảo hộ cho một đơn vị dân cư.
Trong đợt trùng tu gần đây nhất, chính quyền và nhân dân Định
Công hạ đã xây thêm hai dãy hậu tả, hữu mạc làm nơi sắp đặt lễ, các đồ dùng
trong lễ hội… tạo cho khuôn viên tổng thể của ngôi đình có kết cấu mở, thoáng rộng
phía trước, khép kín về phía sau.
Lễ hội làng Định Công diễn ra vào dịp 12 tháng Hai âm lịch
hàng năm để tưởng nhớ các vị Thành hoàng có công với dân với nước. Lễ hội là dịp
để nhân dân Định Công khắp nơi tụ hội về làng, thắp hương kính ngưỡng các vị thần
che chở cho dân làng được yên ấm, đồng thời cũng là dịp tụ hội, thắt chặt tình
đoàn kết, lòng yêu quê hương, đất nước, phát huy những truyền thống tốt đẹp của
người dân nơi đây. Sự kết hợp giữa đình với chùa Liên Hoa phía sau tạo ra một
quần thể di tích đẹp, với một không gian khá rộng, gần gũi mà cũng hết sức
trang nghiêm.
Nguồn: phòng Văn hóa và Thông tin