Hai đình Đông Dư Thượng và Đông Dự Hạ cùng thờ ba vị thành hoàng là Cao Sơn đại vương (anh em con chúa con bác với Tản Viên Sơn thánh), Bạch Đa đại vương - người có công giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân cuối thế kỷ X và Linh Lang đại vương (con trai Vua Lý Thánh Tông) - người có công lớn trong cuộc kháng chiến chống Tống năm 1076 – 1077.
Làng Đông Dư tên Nôm là làng Gỏi, nằm ven sông Hồng, là một
làng lớn, về sau chia thành hai cụm dân cư, trở thành hai làng độc lập với
đình, đền và chùa riêng.
Đầu thế kỷ XIX, Đông Dư là một xã gồm hai thôn : Đông Dư Thượng
(Gỏi Thượng) và Đông Dư Hạ (Gỏi Hạ) thuộc tổng Đông Dư, huyện Gia Lâm, phủ Thuận
An, trấn Kinh Bắc (năm Minh Mạng thứ 12 - 1831 đổi làm tỉnh Bắc Ninh).
Ngoài ra, còn một bộ phận dân cư vượt sông Hồng, sang lập
nghiệp ở địa phận huyện Thanh Trì, là làng Nam Dư, nay thuộc phường Lĩnh Nam
(quận Hoàng Mai); lúc đầu sống dựa nhờ làng gốc nên làng đó có tên Nôm là làng
Dựa.
Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Đông Dư (Thượng thôn và
Hạ thôn) nhập với ấp Thuận Phúc thành một xã mang tên Thừa Thiên thuộc huyện
Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh. Đến tháng 5 - 1961, xã cùng với các xã khác trong huyện
Gia Lâm được chuyển về thành phố Hà Nội. Năm 1965, xã Thừa Thiên được đổi tên
thành Đông Dư như hiện nay.
Các làng Đông Dư Thượng và Đông Dư Hạ đều có đình Đông Dư
Thượng và Đông Dự Hạ cùng thờ ba vị thành hoàng là Cao Sơn đại vương, Bạch Đa đại
vương - người có công giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân cuối thế kỷ X và
Linh Lang đại vương - người có công lớn trong cuộc kháng chiến chống Tống năm
1076 - 1077. Cả hai làng có chung ngôi chùa Phù Quang nằm trên phần đất bãi của
thôn Hạ.
Đình Đông Dư Thượng thuộc thôn Đông Dư Thượng, xã Đông Đông
Dư, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.
Các nguồn tư liệu thành văn hiện còn được bảo quản tại đình
như sắc phong, bia đá, long ngai, bài vị… cho biết đình Đông Dư Thượng thờ 4 vị
thần thành hoàng làng đó là:
Thần Cao Sơn Đại Vương được thờ nhiều trong khu vực đồng bằng
Bắc Bộ, ý nghĩa nguyên mẫu của Cao Sơn Đại vương chính là tục thờ thần núi phổ
biến ở nước ta. Truyền thuyết về vị thần phong phú và ngày càng được lịch sử
hóa lên trong nhiều miền quê, sớm nhất có lẽ là truyền thuyết cho rằng Cao Sơn
là con Lạc Long Quân và bà Âu Cơ, là một trong 50 người con theo mẹ lên núi.
Sau đó trở thành bộ tướng thân cận của Sơn Tinh, đã cùng Sơn Tinh chống lại Thủy
Tinh và thủ lĩnh của tộc người Âu khi họ tấn công nhà nước Văn Lang.
Thứ hai là thần Linh Lang Đại Vương với tương truyền là con
thứ tư của vua Lý Thánh Tông, người đã có công giúp vua dẹp giặc Tống xâm lược.
Linh Lang Đại vương là một trong bốn vị thần của Thăng Long tứ trấn.
Thứ ba là vị thần Bạch Đa gắn với sự tích kể rằng: Chàng Ngọ
và Chàng Mai là hai anh em sinh đôi quê ở động Hoa Lư, còn Bạch Đa là em họ, mồ
côi cha mẹ từ nhỏ, được bố mẹ hai chàng đón về nuôi.
Khi vua Đinh Bộ Lĩnh nổi lên khởi nghĩa, dẹp loạn sứ quân,
ba ông bèn vời ra giúp nước, phong chức Đô úy. Gặp khi giặc Ngô sang cướp nước
ta, ba ông cầm quân đánh tan giặc, đến đóng đồn ở trang Đại Vi. Bất ngờ giặc
Ngô đang đêm đến vây đánh, ba ông không chống lại được, chết ở xứ Đồng Miếu.
Dân làng cảm phục lập miếu thờ.
Cùng phối thờ trong thần điện còn có bộ long ngai bài vị thờ
thần tên Khang Trí. Theo truyền tích của nhân dân địa phương vị thần này có
công cai quản, bảo vệ xóm làng, giúp yên dân nên đã được phong làm thần hoàng
và thờ tại đình làng.
Đình Đông Dư Thượng tọa lạc trên một khu đất tương đối rộng ở
trung tâm của thôn, xung quanh có vườn cây ăn quả và cây lưu niên xanh tốt và
được bao bọc bởi tường bao xung quanh.
Cổng đình xây liền với tường bao theo kiểu cổng nghi môn có
ba cửa, cửa lớn chính giữa và hai cửa nhỏ ở hai bên, đỉnh trụ đắp trái giành,
thân trụ tạo khung đắp nổi câu đối. Liền tường sang hai bên đắp nổi hai chữ Hán
lớn "Phúc – Lộc" tạo vẻ tôn nghiêm cho di tích, tiếp đến là hai cổng
nhỏ mái được làm chồng diêm hai tầng mái, phía trên đắp hoa văn, giữa nóc mái,
là hình mặt trời.
Phần cổ diêm đắp nổi chữ "tả môn – hữu môn", phía
trong ghi "thanh long – minh nguyệt", bên dưới tạo khung ghi câu đối.
Ngoài cùng là hai trụ biểu, đỉnh trụ đắp trái giành, thân trụ xây liền tường
bao.
Phía trong cổng là khoảng sân rộng được lát gạch Bát Tràng
kéo suốt chiều dài của ngôi đình, hai bên là hai dãy nhà tả, hữu mạc.
Đại đình là một ngôi nhà ba gian hai chái, nhà làm kiểu bốn
mái với các đầu đao uốn cong lên trông rất mềm mại, bờ nóc đắp nổi đề tài
"lưỡng long chầu nhật" trông rất thanh thoát, rồng có kích thước nhỏ,
hai đầu kìm và đầu đao có trang trí lá hỏa, nghê chầu, mái nhà lợp ngói di.
Nền nhà đại đình làm cao hơn sân 30cm, láng xi măng kẻ ô giả
gạch. Các gian phía trước có ba cửa ra vào làm kiểu cánh gỗ ghép ván và hai cửa
chữ "thọ" ở hai gian đốc.
Kết cấu kiến trúc của tòa đại đình với bốn bộ vì chính và
hai phần mái chái ở hai bên. Các bộ vì đều được thiết kế theo một kiểu chung
"thượng chồng rường con nhị hai kẻ và bẩy". Mỗi bộ vì được định vị
trên bốn hàng chân cột với kết cấu chắc chắn, cột được làm kiểu "thượng
thu hạ thách".
Hai vì chái làm cân xứng chồng xà trụ chốn hạ mái lẫy làm
đao. Tại gian giữa nhà đại đình được bài trí một hệ thống hoành phi, câu đối,
hương án…và một số đồ thờ tự với hình thức chạm lộng, chạm bong kênh, các đề
tài tứ linh, tứ quý mang phong cách nghệ thuật của thế kỷ XX, còn lại được để
trống tạo không gian thoáng rộng cho sinh hoạt văn hóa cộng đồng.
Trung tế là một ngôi nhà ba gian, hai dĩ, đầu hồi xây bít đốc,
mái nhà lợp ngói ta. Kết cấu kiến trúc với bốn bộ vì kèo thiết kế theo kiểu vì
kèo quá giang, chủ yếu bào trơn, không có hoa văn trang trí. Trong nhà đặt bộ
kiệu long đình dùng để rước trong ngày hội.
Hậu cung làm nối với gian giữa của trung tế với hai gian nhỏ
hẹp. Kết cấu kiến trúc có hai vì theo kiểu "kèo kìm, quá giang vượt cột trốn",
đầu hồi xây bít đốc. Phía trên treo y môn, giữa lòng nhà xây một ban thờ trên đặt
bốn long ngai sơn son thiếp vàng …. Phía ngoài đặt một hương án trên để bát
hương, đài nước và một số đồ thờ khác.
Trang trí trên kiến trúc đình Đông Dư Thượng tập trung chủ yếu
ở tòa đại đình ở các đầu dư, đầu kẻ, con rường. Ngoài ra trên kiến trúc của
đình còn một số mảng chạm khắc cốn mê đơn giản chủ yếu là rồng và các họa tiết
hoa văn lá lật, sóng nước…Các đề tài trang trí chủ đạo là tứ linh, những con vật
mang biểu tượng của sự bền vững, thanh cao, cũng giống như đất trời chuyển vận
quanh năm theo chu kỷ (xuân, hạ, thu, đông) "Xuân sinh – Hạ trưởng – Thu
thu - Đông tàn" không lúc nào ngừng, không có bắt đầu và không bao giờ kết
thúc, tiêu biểu cho sự vĩnh hằng.
Đôi hạc thờ chân cao, cổ cao, đường nét mềm mại uyển chuyển
đặt trên lưng rùa phản ánh quan niệm cổ xưa của dân gian Việt Nam: hạc, rùa là
biểu tượng của sự thanh cao, bền vững, vĩnh hằng của con người với đất trời.
Bát hương gốm Phù Lãng, đỉnh đồng, cây đèn, cây nến…hầu hết là những hiện vật
mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XIX – XX.
Bên cạnh đó, ta còn gặp những mảng trang trí trên các đồ lễ
tự như: giá văn, hương án, kiệu rước, bát bửu, biển lệnh…tất cả đều được son
son thiếp vàng làm tăng thêm vẻ uy nghiêm cho di tích. Đồng thời các di vật này
đều được ăn sâu vào tâm thức tín ngưỡng truyền thống của mỗi người dân địa
phương.
Trải qua thời gian tồn tại với những biến động thăng trầm của
lịch sử và nhất là qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã làm cho
kiến trúc di tích bị hư hỏng, thần tích của di tích bị thất lạc không còn.
Mặc dù vậy, hiện nay đình Đông Dư Thượng còn bảo lưu được bộ
di vật văn hóa, lịch sử với nhiều chủng loại và chất liệu khác nhau. Những di vật
này ngoài giá trị tôn thêm vẻ đẹp của kiến trúc còn là nguồn tư liệu quý cho việc
tìm hiểu về lịch sử ngôi đình và đời sống vật chất, tinh thần của một làng quê
truyền thống.
Trong nhiều di vật còn lại của di tích trước hết phải kể đến
28 đạo sắc phong cho các vị thần đình làng, sắc sớm nhất có niên hiệu Vĩnh
Khánh thứ 2(1730), sắc muộn nhất có niên đại Khải Định thứ 2 (1927); bốn bộ
long ngai bài vị được sơn son thếp vàng thuộc thế kỷ XIX – XX được chạm khá cầu
kỳ, tỷ mỷ các hình rồng, phượng, mặt hổ phù, hoa dây, văn sóng nước…; một cỗ kiệu
long đình, một bộ kiệu mui luyện; một bộ kiệu nước với các nét chạm thanh
thoát, song mềm mại thể hiện bàn tay khéo léo của người nghệ nhân xưa; một bia
tứ trụ "Phụng sự bi ký" có niên đại Chính Hòa thứ 24 (1703); sáu bia
đặt hậu…Các di vật này đã gắn bó chặt chẽ với di tích và càng làm tăng thêm phần
giá trị cho di tích.
Đình Đông Dư Thượng là di tích tín ngưỡng tôn giáo, phục vụ
nhu cầu sinh hoạt văn hóa và tín ngưỡng của nhân dân địa phương. Sự tôn vinh và
ghi nhớ công tích của các vị thần luôn được người dân Đông Dư quan tâm chú trọng,
thể hiện qua việc tổ chức lễ hội truyền thống hàng năm: Ngày mùng 9 tháng 2 rước
nước tại sông Hồng làm lễ mộc dục; Ngày mùng 10 tháng 2 làm lễ giỗ thánh Linh
Lang Đại vương; Ngày 11 tháng 2 rước văn ra ngoài đền tế Bà chúa Liễu Hạnh;
Ngày 14 tháng 2 tế hóa mã; Ngoài ra còn có các ngày giỗ của các vị thần: Ngày
14 tháng 8 giỗ thần Khang Trí (Trung đẳng thần); Ngày mùng 2 tháng một giỗ thần
Bạch Đa (Trung đẳng thần ); Ngày mùng 10 tháng một giỗ thần Cao Sơn (Thượng đẳng
thần)
Đình Đông Dư Thượng đã được UBND thành phố Hà Nội ra quyết định
xếp hạng là di tích Lịch sử – Kiến trúc Nghệ thuật năm 2007.
Đình Đông Dư Hạ hiện nay thuộc thôn Đông Dư Hạ, xã Đông Dư,
huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội.
Là một vùng đất được định cư và có nền văn hoá từ lâu đời,
cùng với sự phát triển của con người các làng cổ với những mái đình, ngôi chùa
cũng được dựng lên nhằm phục vụ sinh hoạt văn hoá, tín ngưỡng thờ cúng của nhân
dân địa phương, đình Đông Dư Hạ cũng không ngoài mục đích đó. Tại đình, hiện
còn lưu giữ và bảo tồn được các sắc phong ghi chép về việc tôn thờ ba vị Thành
hoàng làng là thần Cao Sơn Đại Vương, thần Linh Lang Đại Vương và thần Bạch Đa.
Thần Cao Sơn có tên là Nguyễn Hiền và người em ruột là Nguyễn
Sùng (tức thần Quí Minh) đều là anh em gần gũi của thần Sơn Tinh (tức Đức Thánh
Tản Viên). Nhị thần là người trang Thanh Uyên, huyện Tam Nông, tỉnh Vĩnh Phú.
Khi Thuỷ Tinh đem quân đánh Sơn Tinh và tộc Âu vây đánh nhà nước Văn Lang của
Hùng Vương, thần Cao Sơn đã có công lớn cùng với Sơn Tinh chiến thắng thuỷ tặc
quân Âu, bảo vệ nhà Hùng.
Đầu thời Lê Trung Hưng, thần Cao Sơn Đại Vương được nhà nước
phong kiến đặc biệt đề cao. Nguyên do của sự kiện này là bởi thần đã có công
phù trợ vua Lê giành lại ngai vàng, dẹp yên nạn chuyên quyền của ngoại thích.
Sự kiện lịch sử trên đã được quan Quang Tiến Thân Lộc Đại
phu, Thiếu bảo, Thượng thư Bộ Lễ, Đông các Đại học sĩ, kiêm tế tửu Quốc Tử Giám
trông nom việc kinh điển của nhà Lê là Lê Tung soạn vào năm Canh Ngọ niên hiệu
Hồng Thuận thứ 3 (1510) và được ghi lại trên tấm bia đá niên hiệu Cảnh Hưng thứ
33 (1772) dựng tại đình Kim Liên – một trong tứ trấn của kinh thành Thăng Long.
Theo tấm bia "Cao Sơn Đại Vương thần từ bi minh tích tự"
(bài minh kèm theo bài trần thuật tên bia đền thần Cao Sơn) thì lúc bấy giờ, Lê
Mẫn (tức Uy Mục Đế) thất đức, hung bạo, càn rỡ. Kẻ ngoại thích chuyên quyền, bọn
nội gián can dự vào chính sự khiến cho hàng triệu thường dân bị khốn khổ, tông
thất và phiên thần bị giết hại, thần oán người giận mà không biết.
Tháng 11 năm Kỷ Tỵ, đức vua Lê Tương Dực lánh lạn vào Tây
Đô, dấy nghĩa binh khôi phục cơ nghiệp của vua Cao Tổ (Lê Lợi) cứu vớt ức triệu
dân.
Bấy giờ có các vị thân thuộc của Trường Lạc Điện (vợ của Lê
Thánh Tông) phụng mệnh đem quân đi chinh phạt, khi đến huyện Phụng Hoá, thấy giữa
cảnh núi rừng rậm rạp có ngôi đền cổ đề bốn chữ "Cao Sơn Đại Vương".
Bọn Văn Lữ trông thấy làm kinh dị bèn khấn cầu mong sự trợ
giúp, do được thần Cao Sơn ngầm giúp nên chỉ trong 10 ngày việc lớn đã thành.
Sau khi lên ngôi hoàng đế, Lê Tương Dực đã cho xây lại đền thờ, thần Cao Sơn được
triều đình nhà Lê đặc biệt coi trọng.
Thần Linh Lang Đại vương là con thứ tư của vua Lý Thánh
Tông. Tương truyền bấy giờ hoàng phi họ Nguyễn đang tắm ở Dâm Đàm (Tây Hồ) bỗng
có thần rồng hiện ra phun nước thơm vào mình, về nhà bà mang thai, 14 tháng
sinh ra Linh Lang.
Vua Lý Thánh Tông cho bà đưa hoàng tử về nuôi dưỡng tại nơi ở
cũ của bà trong trại Thủ Lệ. Linh Lang lớn lên tướng mạo khôi ngô, trên người
có tướng lạ. Bấy giờ quân nhà Tống do Triệu Tiết chỉ huy sang cướp phá biên giới
nước ta, kinh thành náo động.
Vua sai sứ đi chiêu mộ người có tài đi đánh giặc. Sứ giả tới
trại Thủ Lệ, Linh Lang sai mời sứ giả vào nhà, bảo sứ giả trở về xin vua ban
cho một ngọn cờ hồng, một thớt voi đực để đi đánh giặc.
Nhà vua không những chuẩn ý theo lời đề nghị của vương mà
còn cấp thêm mười vạn binh lính, vương lại mộ thêm nghĩa sĩ của bản trại được
121 người, cho sắm sửa các thứ mang tới, Linh Lang hô to một tiếng, con voi lập
tức nằm phục xuống, Linh Lang cầm cờ nhảy lên lưng voi phóng ra trận, vừa phất
cờ vừa đánh, giặc thua chạy tan tác.
Sau khi thắng giặc, Linh Lang trở về nơi ở cũ, ít lâu sau
thì mắc bệnh nặng. Vua tới thăm hỏi, Linh Lang tâu rằng mình không phải là người
trần, nay đã đến hạn phải ra đi. Nói rồi hoá thành con giao long trắng dài trăm
trượng, trườn xuống Dâm Đàm biến mất.
Sau đó trời mưa lớn liền trong mấy ngày. Khi trời vừa tạnh,
từ trên trời bay xuống rất nhiều cờ đỏ, cắm xuống trước cửa Ngọ Môn. Vua bèn
phong tước cho thần là Linh Lang Đại Vương, sửa lại nơi ở cũ của đại vương làm
đền thờ.
Thần Linh Lang Đại Vương ngoài thờ ở đền Voi Phục (Thủ Lệ)
còn được thờ ở rất nhiều nơi trên cả nước, mỗi nơi đều có bản thần tích riêng.
Theo sự thống kê của thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm, thì tại đây đã lưu giữ,
bảo quản hơn 80 văn bản thần tích ghi chép sự tích thần Linh Lang.
Qua đối chiếu trên một số văn bản, nhận thấy trong cách ghi
chép người xưa đã khẳng định công lao đánh giặc ngoại xâm của Đại Vương. Hình
tượng người anh hùng trong công cuộc đánh dẹp giặc ngoại xâm đã được phụng thờ
trong các di tích, không chỉ mang ý nghĩa thờ cúng theo tín ngưỡng cổ truyền mà
chính là vị thần trấn giữ phía Tây Kinh thành một biểu tượng sinh động để giáo
dục ý thức bảo vệ Tổ quốc cho muôn đời sau.
Về Thần Bạch Đa, trong cuốn Di tích lịch sử văn hoá Việt Nam
– Bảng tra cứu các tài liệu thư tịch Hán Nôm của Viện khoa học xã hội Việt Nam
– Viện nghiên cứu Hán Nôm – NXB KHXH – 1991, trang 226 có ghi như sau: Đình
làng Đại Vi (làng Ve) nay là xã Đại Đồng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc, thờ ba vị
nhân thần là Chàng Ngọ, Chàng Mai và Bạch Đa. Sự tích kể rằng Chàng Ngọ và
Chàng Mai là hai anh em sinh đôi quê ở động Hoa Lư, bà mẹ nằm mộng lấy được râu
rồng rồi có mang, sinh ra hai chàng.
Còn Bạch Đa là em họ, mồ côi cha mẹ từ nhỏ,
được bố mẹ hai chàng đón về nuôi đến khi Đinh Bộ Lĩnh nổi lên khởi nghĩa, dẹp
loạn sứ quân, nghe tiếng ba ông bèn vời ra giúp nước, phong chức Đô Uý. Ba ông
mộ được mấy nghìn quân, đóng ở chùa trang Bối Khê, đạo Sơn Nam. Gặp khi giặc
Ngô sang cướp nước ta ba ông cầm quân đánh tan giặc, đến đóng đồn ở trang Đại
Vi.
Bất ngờ giặc Ngô đang đêm đến vây đánh, ba ông không chống lại đựoc, hy sinh ở
xứ Đồng Miếu. Dân làng cảm phục lập miếu thờ. Đến khi Đinh Tiên Hoàng lên ngôi
phong ba ông làm phúc thần. Đời Lê Đại Hành ban sắc phong là tam vị Linh ứng Đại
Vương và cho phép nhiều làng lập đền thờ.
Như vậy vị thần Bạch Đa không những được thờ tại đình làng Đại
Vi mà được thờ ở nhiều nơi, cụ thể như ở đình Đông Dư Hạ hiện có 6 đạo sắc
phong cho vị thần Bạch Đa, sắc sớm nhất vào ngày 10 tháng 2 năm Vĩnh Khánh 2
(1730), sắc muộn nhất là ngày 18 tháng 3 năm Khải Định 2 (1927).
Theo truyền tích cũng như các vị cao niên trong làng kể lại,
đình Đông Dư Hạ thờ ba vị thần nêu ở trên là những người có công danh, hành trạng
to lớn trong lịch sử xây dựng và bảo vệ nền độc lập của đất nước. Tuy là huyền
thoại nhưng cái lõi của nó vẫn xuất phát từ thực tế lịch sử và đi vào tâm thức
của nhân dân và được nhân dân tôn vinh, phụng thờ. Chính vì thế mà những huyền
thoại, những nhân vật được phụng thờ tại di tích đình Đông Dư Hạ mang ý nghĩa lịch
sử, văn hoá và nhân văn sâu sắc.
Đình Đông Dư Hạ toạ lạc trên một khu đất rộng rãi ở giữa
làng "Tiền quang, hậu thoáng" gồm các đơn nguyên kiến trúc: nghi môn,
tiền tế, trung tế và hậu cung.
Nghi môn đình xây hướng Đông Bắc, hai bên là hai cột trụ biểu,
đỉnh trụ đắp hình trái giành, phía dưới bổ ô lồng đèn đắp nổi đề tài tứ linh,
thân trụ để trơn. Qua cổng nghi môn và một khoảng sân nhỏ được lát gạch Bát
Tràng màu đỏ 30x30cm là đến toà tiền tế.
Tiền tế có kết cấu năm gian, phía trước mở ba cửa kiểu
"Thượng song, hạ bản". Kết cấu kiến trúc bốn hàng chân cột, vì kèo kiểu
giá chiêng, mái phân "Thượng nhị, hạ tam". Xây kiểu tường hồi bít đốc,
chính giữa bờ nóc đắp hình lưỡng long chầu nhật, hai bên là hai đầu kìm, mái lợp
ngói mũi hài, nối hai đầu bậc ngũ cấp là hai cột trụ biểu, đỉnh trụ đắp hai con
nghê, phần ô lồng đèn đắp nổi đề tài tứ linh và tứ quý, thân trụ đắp đôi câu đối:
"Thần thánh kính tôn, vạn đại trường tồn danh hiển tích
Miếu đình linh bái, thiên niên hằng tại đức lưu quang".
Dịch nghĩa:
Thần thánh tôn nghiêm, muôn đời trường tồn danh hiển tích
Miếu đình thiêng lễ, ngàn năm vĩnh viễn đức lưu quang.
Trung tế có cấu trúc ba gian, mái lợp ngói tây, phía trước mở
ba cửa kiểu panô, hai bên hồi là cửa sổ chấn song sắt, bộ khung đỡ mái với 4 bộ
vì kèo làm kiểu kèo kìm quá giang, mái phân thượng tam hạ tứ, nền nhà lát xi
măng. Gian giữa treo bức đại tự "Thượng đẳng tối linh". Bên dưới là
hương án, phía trên đặt các đồ thờ tự được chạm khắc khá tỉ mỉ và công phu với
các đề tài trang trí hình phượng vũ, rồng hoá lá, rồng chầu, hổ phù mang phong
cách nghệ thuật thế kỷ XIX.
Phần tiếp giáp gian giữa trung tế là hậu cung của đình được
xây một gian, mái làm bằng bê tông, chính giữa là ban thờ xây bệ gạch cao 120
cm, phía trên đặt long ngai các vị Thành hoàng làng cùng các đồ thờ tự khí
khác.
Trải qua thời gian và những biến thiên thăng trầm của lịch sử,
di tích đình Đông Dư Hạ không còn bảo tồn được những kết cấu kiến trúc ban đầu
nhưng đình vẫn còn bảo lưu được nhiều di vật quý, là nguồn tư liệu giúp cho việc
tìm hiểu về lịch sử ngôi đình và đời sống vật chất, tinh thần của một làng quê
truyền thống, minh chứng cho bề dày lịch sử của một vùng đất cổ. Đình Đông Dư Hạ
là một di tích có giá trị nhiều mặt, rất cần được trân trọng, gìn giữ. Việc thờ
các vị Thành hoàng làng ở đình là sự biểu hiện truyền thống Uống nước nhớ nguồn,
ăn quả nhớ người trồng cây tốt đẹp của nhân dân ta.
Hội làng Đông Dư diễn ra từ ngày mồng 7 đến ngày 13 tháng
Hai. Mở đầu hội là lễ lấy nước trên sông Hồng và rước nước từ bến sông về đình
để tế lễ. Sau đó là các trò chơi, độc đáo nhất là các cuộc đấu kiếm, đấu quyền,
múa khiên.