Đình Gia Lâm, xã Lệ Chi được xây dựng từ lâu đời, đình thờ Hộ Pháp cư sĩ họ Đặng chống lại sự bành trướng của nhà Đông Hán xuống phương Nam, người có công với dân với nước.
Bản thần tích bằng đá tại thôn Gia Lâm đề niên hiệu Hồng
Phúc 1 (1572) đã cho ta biết rất rõ về thân thế sự nghiệp của vị thần hoàng là
Đặng cư sỹ. Ngài đời đời được các triều vua ban phong mỹ tự và chỉ thị cho dân
thờ cúng bởi những công lao của ngài đối với dân, đặc biệt là dân thôn Gia Lâm.
Theo ngọc phả đình Gia Lâm thì đình thờ Hộ Pháp cư sĩ họ Đặng.
Ông sinh năm 26 TCN. Năm 18 tuổi cha mẹ đều mất, ông đang học ở Gia Lâm, sau
Hán Chiêu Đế cử làm Thái thú Giao Châu. Đi đánh giặc, ông phủ dụ bảo ban lễ
nghĩa, quân giặc xin hàng.
Nhân lúc nhàn rỗi ông quay lại dạy bảo dân điều ân nghĩa,
dân chúng đều bái tạ. Đến đời Ai Đế, Vương Mãng làm loạn, ông đem quân trấn giữ
quan ải, bị bao vây, ông phá vòng vây chạy về đến Long Biên và mất vào ngày 10
tháng 8 âm lịch.
Vua nghe tin bèn ban sắc cho làm phúc thần, lại cho các quận
Cửu Chân, Nam Hải, Nhật Nam, Hải Dương, Gia Lâm cùng rước mỹ tự về thờ. Đình
Gia Lâm dựng trên nền lớp học cũ của ông.
Đặng Cư Sỹ đã có công giáo hoá dân, mở trường dạy học thời
bình, đánh giặc giữ yên bờ cõi thời loạn. Khi ngài mất vẫn hiển linh phò vua Trần,
vua Lê đánh giặc giúp nước. Bởi vậy các triều đại đều phong ngài làm Thượng Đẳng
Thần.
Ngôi đình xưa quay hướng Đông, xung quanh đình có đường rước
mỗi khi làng mở hội. Trước đình có hai cây gạo cổ thụ, bên trái là ao đình, bên
phải là văn chỉ. Cạnh văn chỉ là giếng cổ hình tròn mà dấu tích còn đến ngày
nay là những chân đá tảng lớn. Về kiến trúc đình được dựng theo kiểu chữ nhị gồm
đình Thượng, đình Hạ đều năm gian hai dĩ.
Đình Thượng – Hạ ngăn cách nhau bởi một máng. Đình Thượng nối
với hậu cung ba gian, mái đình có đao cong trang trí hình phượng. Có thể nói
đây là một ngôi đình cổ bảo lưu được những nét đẹp trong truyền thống xây dựng
đình chùa của cha ông ta xưa.
Hiện nay đình chỉ còn phần hậu cung mới được tu tạo. Để bù
vào những thiếu hụt về kiến trúc thì đình Gia Lâm lại giữ gìn được những hiện vật
và đồ thờ tự rất quý hiếm so với các di tích khác quanh vùng.
Cuốn thần phả bằng đá là tấm bia đá hai mặt, phần đế có kích
thước 0,67 x 0,55m. Nội dung của bia trùng với thần phả của Gia Lâm trong đó
ghi rõ : “Phả lục một vị Đại vương đời Hán Chiêu Đế được các đời sắc phong tặng”.
Bia dựng ngày tốt tháng giêng năm Hồng Phúc 1 (1572) thần Nguyễn Bính Đông Các
đại học sỹ ở Viện hàn lâm kính cẩn soạn ra bản chính.
Ngày tốt tháng 8 năm Vĩnh Hựu 6 (1740) thần Nguyễn Hiền quản
giám bách linh trên Hùng lĩnh thiếu khanh, tuân theo y bản chính để soạn lại.
Ngai và bài vị là hiện vật mang phong cách nghệ thuật thời
Lê. Kích thước không lớn lắm song được sơn son thếp vàng đẹp rực rỡ. Tay ngai uốn
cong kết thúc bằng hai đầu rồng trong dáng vươn lên. Rồng được chạm kỹ đến từng
chi tiết. Bài vị chia làm ba phần đỉnh, thân, đế. Đỉnh là một mặt trời lửa, xung quanh chạm hoa lá văn xoắn.
Thân hai bên chạm văn sóng nước, ở giữa chạm văn mây rồng uốn lượn và đề chữ
ghi chép về thần hoàng. Đế làm theo kiểu thắt, ở giữa chạm hoa văn hình học.
Kiệu long đình mang
phong cách nghệ thuật thời Lê. Đòn kiệu lớn phía trên chạm rồng thời Lê, bờm
dài, dáng khoẻ khoắn vươn về phía trước. Hiện tại ở đình còn một hoành phi sơn
son thiếp vàng với nội dung “Giữ quốc đồng hưu” có nghĩa là cùng tốt lành với đất
nước.
Các ngày hội của đình Gia Lâm gồm: Ngày 10 tháng giêng lễ
khai hạ, ngày 11 tháng 2 ngày sinh Đức Thánh Mẫu hội ba ngày rước ở nghè về
đình, đình về nghè. Ngày 10 tháng 3 đại hội mừng công, mở hội 10 ngày, bánh
dày, mía, ăn mặc như ngày xưa, 22 người phù giá. Ngày 19 tháng 3 rước lên chùa
Xuân Quan lễ đại thỉnh pháp thỉnh phật, hát cửa đình. Ngày 10 tháng 8 ngày hoá
tế lễ, gói bánh chưng đường mật.
Chùa Gia Lâm có tên chữ là “Diên Phúc tự”còn được gọi là
chùa Dưới để phân biệt với chùa Trên “Khánh Lâm tự”. Trước đây phía trước chùa
50 m có giếng nước cổ, dân thường gọi là giếng thần. Gần sát đường trục trước
chùa có ao sen, hai bên tam quan có hai chó đá…Sau tam quan sát đường là hai
dãy nhà năm gian đối diện qua một sân lát gạch Bát Tràng cổ rộng.
Đến nay ngôi chùa chính vẫn còn nguyên vẹn, trong chùa phần
khung gỗ được trạm khắc hoa văn nghệ thuật. Hệ thống tượng phật trong chùa đầy
đủ môn tự như các chùa khác trong vùng, song chùa còn có một số pho tượng có những
nét đặc biệt.
Theo lời truyền kể của dân làng thì trước đây chùa Diên Phúc
có một quy mô khang trang rộng rãi. Sau tam quan là hai dãy nhà năm gian đối diện
nhau qua một sân lát gạch Bát Tràng. Chùa chính còn tương đối nguyên vẹn.
Cổng chùa Diên Phúc Tự. Photo NCCong ©2017 Sân chùa Diên Phúc Tự. Photo NCCong ©2017
Khánh thành trùng tu chùa Gia Lâm ngày 10.01.2021
Tại chùa Diên Phúc, chùa chính được dựng theo kiểu chữ đinh,
ba gian hai dĩ hậu cung hai gian có kết cấu kiểu vì chồng giường làm theo lối cổ.
Phần chạm khắc trang trí trên kiến trúc tập trung vào các bức cốn ở gian giữa
và phần nối giữa chùa chính và hậu cung. Những nét chạm hoa văn hình hoa lá
cách điệu. Hậu cung là một nếp nhà hai gian là nơi tọa lạc của các vị phật và
Thập Điện Diêm Vương.
Tại ban thờ chính, bên trái có pho tượng phật, hai tay vòng
lên đùi, cổ đeo vòng kim tòng, chân trái để lộ. Pho ở giữa tay trái kết ấn trước
ngực, ngồi kiết già hàng ma lộ bàn chân phải. Pho bên phải tay phải giơ lên,
tay trái úp trên lòng đùi. Nét mặt ba pho tượng phật khác nhau để thể hiện
riêng biệt nội tâm của từng pho.
Pho tượng Quan Âm nhiều tay cao 0,98 m, đôi tay chính chắp
trước ngực, mười hai tay khác toả đều sang hai bên.
Đặc biệt chùa còn có pho tượng bà Giàn, nên từ xưa chùa Diên
Phúc còn được gọi là đền thờ Đức Thánh Bà, một trong tứ pháp Bà Dâu, Bà Đậu, Bà
Giàn, Bà Tướng.
Chùa Diên Phúc hiện nay còn bảo lưu những di vật văn hóa quý
như Quả chuông “ Diên Phúc tự chung” đúc ngày tốt tháng 2 niên hiệu Minh Mệnh
(1836) do Nhiên Học Lê Văn Trác viết chữ. Bia “Hậu phật bi kị” dựng ngày 1
tháng 8 niên hiệu Khải Định 5(1920), năm pho tượng gỗ và nhiều đồ thờ có giá trị
như bát nhang cổ, độc bình cổ, mâm đồng….
Di tích Đình Gia Lâm- Chùa Diên Phúc là trung tâm sinh hoạt
văn hoá cộng đồng, nơi hướng con người đến cái thiện tránh xa điều ác. Cụm di
tích đã được Bộ Văn hoá và Thông tin ra Quyết định xếp hạng năm 1994.