Đình Giang Liễu được khởi dựng thời Lê Trung Hưng, nằm giữa thôn Giang Liễu, xã Phương Liễu, huyện Quế Võ. Đình thờ phụng thành hoàng là Ngũ vị Lôi Công, âm phù giúp tướng Nguyễn Công Cự thời Lý đánh giặc Chiêm Thành.
Đình Giang Liễu, Quế Võ, thờ phụng Ngũ vị Lôi Công
Đình Giang Liễu thuộc thôn Giang Liễu, xã Phương Liễu, huyện
Quế Võ. Đình thờ phụng thành hoàng là Ngũ vị Lôi Công và tướng quân Nguyễn Công
Cự đánh giặc Chiêm Thành thời Lý.
Đình Giang Liễu vốn được khởi dựng thời Lê Trung Hưng. Vốn
xưa, Đình Giang Liễu có quy mô lớn gồm tòa Đại đình và Hậu cung tạo thành mặt bằng
kiến trúc hình chữ Đinh. Toà Đại đình 5 gian 2 chái với bộ khung bằng gỗ Lim,
bước gian rộng, mặt quay hướng Tây - Nam. Các gian hai bên có lắp ván sàn bằng
gỗ lim, đóng cao so với lòng giếng.
Đình có bốn mái, đỉnh bờ nóc đắp hình “lưỡng long chầu nguyệt”,
bờ guột, bờ dải trang trí tứ linh, đầu đao uốn cong mềm mại. Điêu khắc trang
trí tập trung trên con chồng, cốn, đầu dư, bảy hiên… bằng kỹ thuật chạm nổi,
kênh bong với các chủ đề “tứ linh”, “tứ quý” rất tinh xảo, nghệ thuật. Hậu cung
có quy mô 3 gian. Phía trước sân đình có hai cây đa cổ thụ toả bóng xuống hai
ao lớn bên đường.
Trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, tại đình Giang Liễu
đã diễn ra những cuộc mít tinh, cổ động lớn cho việc giành chính quyền của huyện
Võ Giàng. Trong kháng chiến chống Pháp, năm 1952 ngôi đình bị phả hủy hoàn
toàn. Đến năm 1955, nhân dân xây dựng 3 gian nhà nhỏ làm nơi thờ tự.
Thời kỳ hợp tác xã, địa phương làm nhà kho trong khuôn viên
di tích. Năm 1994, địa phương mua bộ khung nhà nơi khác về dựng lại đình, quy
mô gồm: Đại đình 3 gian 2 chái, Hậu cung 2 gian và xây dựng Nghi môn. Năm 2010,
nhà nước hỗ trợ kinh phí 60 triệu đồng cùng với vốn xã hội hoá để nâng cốt nền
công trình, tu bổ Đại đình và nối thêm 1 gian Hậu cung. Năm 2015, xây dựng nhà
thờ Hậu thần bên trái tòa Đại đình.
Đình Giang Liễu là nơi phụng thờ Ngũ Vị Lôi Công (Đệ nhất
Nguyễn Lôi công Hiển ứng Thượng đẳng Tối linh đại vương; Đệ nhị Nguyễn Lôi công
Uy linh Thượng đẳng Tối linh đại vương; Đệ tam Nguyễn Lôi công Dũng liệt Thượng
đẳng Tối linh đại vương; Đệ tứ Nguyễn Lôi công Hách chấn Thượng đẳng Tối linh đại
vương; Đệ ngũ Nguyễn Lôi công Anh linh Thượng đẳng Tối linh đại vương) và phối
thờ tướng quân Nguyễn Công Cự. Lai lịch và công trạng của các vị Thần tóm lược
như sau:
Vào đời vua Lý Thái Tông, giặc Chiêm Thành khởi quân xâm lược
nước ta. Nhà vua lệnh cho đại tướng Nguyễn Công Cự đem 3 vạn tinh binh đi chống
giặc. Qua nhiều lần giáp chiến mà Nguyễn Công Cự vẫn chưa thể bình được bèn lui
binh về đồn trú tại trang Giang Liễu. Tại đây, tướng quân Nguyễn Công Cự được
Ngũ vị Lôi Công hiển ứng âm phù trợ giúp đánh giặc (hôm đó là ngày 12 tháng 3).
Nguyễn Công Cự tức tốc tiến binh, thẳng đến nơi đồn trú của giặc Chiêm Thành đại
chiến 1 trận, quân giặc đại bại, chết đuối vô số, quân ta không mất sức mà bình
được giặc.
Sau khi đã bình giặc xong, Nguyễn Công Cự về triều bái yết
nhà vua, tấu trình toàn bộ sự việc. Nhà vua nghe xong, bèn mở yến tiệc để chúc
mừng, khao thưởng quân sĩ, gia ban phong thưởng, sắc chỉ nhân dân bản trang lập
đền thờ làm nơi linh từ phụng sự. Đến thời vua Lê Thái Tổ, các Ngài lại hiển ứng
âm phù giúp vua chiến thắng giặc Ngô, được vua gia phong: “Thượng đẳng Tối linh
thần”, cho phép phụng thờ theo lệ cũ.
Đình Giang Liễu tọa lạc ở trung tâm của khu phố, nằm trên trục
giao thông chính nối liền với Quốc lộ 18. Khuôn viên đất đình rộng 933 m2, bao
bọc xung quanh là khu dân cư trù mật. Hiện nay, đình Giang Liễu gồm các công
trình kiến trúc: Đại đình và Hậu cung (tạo thành mặt bằng hình chữ Đinh), nhà Hậu
thần, Nghi môn, nhà Tạo soạn, sân gạch.
Đại đình có kiến trúc kiểu “4 mái đao cong”. Bộ khung chịu lực
được làm bằng gỗ lim với 4 bộ vì tạo thành 3 gian 2 chái. Hai bộ vì gian giữa
có 5 hàng chân cột (trốn cột cái trước), kết cấu kiểu “thượng kẻ ngồi giá
chiêng, hạ kẻ ngồi, tiền kẻ, hậu kẻ”. Hai bộ vì gian bên có 6 hàng chân cột, kết
cấu như 2 bộ vì gian giữa. Đại đình mở cửa đi ở 3 gian giữa tại vị trí cột
hiên, mỗi gian 4 cánh kiểu “thượng song hạ bản”.
Hậu cung được nối liền với gian giữa và vuông góc với toà Đại
đình tạo thành không gian khép kín. Bộ khung chịu lực bằng gỗ, gồm 4 bộ vì tạo
3 gian. Mỗi bộ vì có 2 hàng chân cột, kết cấu kiểu “thượng chồng rường, hạ ván
mê” xà nách gác lên tường bao. Tòa Đại đình và Hậu cung là kiến trúc cổ thời
Nguyễn.
Trong khuôn viên di tích còn có nhà thờ Hậu thần 3 gian, bộ
khung bằng bê tông cốt thép, Nghi môn, công trình phụ trợ, sân gạch... cùng nhiều
cây cổ thụ xanh mát.
Tòa Đại đình
Ban thờ Công đồng và bộ cửa võng chạm khắc, sơn son thếp vàng lộng lẫy
Đầu đao mái đình gắn trang trí đầu rồng và hoa lá cách điệu
Phù điêu long phượng trên bức cổn vì kèo nách
Ban thờ thành hoàng ở Hậu cung
Bia giới thiệu lịch sử của các vị thành hoàng
Hạc thờ bằng đồng thời Nguyễn
Bộ chấp kích thời Nguyễn
Ngựa thờ thời Nguyễn
Hàng năm tại di tích diễn ra nhiều sự lệ như: ngày Thánh hiện
(12 tháng 3) và ngày chiến thắng (20 tháng 10), ngày xuân (11 - 13 tháng 2),
ngày thu (12 tháng 8), các ngày tết Nguyên Đán, tuần rằm, mùng 1…
Trong ngày 20 tháng 10, có tổ chức tế lễ, dâng hương, rước Đức
thánh từ đền Giang Liễu về đình Giang Liễu cũng như đình của các “hàng từ” cùng
thờ Ngũ vị Lôi Công thuộc 3 xã 9 thôn, gồm: Mao Dộc, Mao Yên, Mao Trung, Mao Lại
(xã Phượng Mao); Giang Liễu, Hà Liễu (xã Phương Liễu); Đa Cấu, Sơn Đông, Đông
Dương (phường Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh). Đoàn rước rất đông, đi theo thứ tự:
cờ đầu, biển, bát bửu, kiếm đao, gươm trường, ngựa hồng, ngựa bạch, bát âm, kiệu,
đội tế, đội dâng hương, các cụ cao niên, nhân dân địa phương. Hai bên đoàn rước
có đội múa lân, rồng vây quanh. Phần hội tổ chức nhiều trò chơi như: vật, đánh
đu, cờ người, thi bổ câu bay, hát chèo, quan họ… Hiện nay, lễ hội thôn Giang Liễu
cứ 5 năm 1 lần địa phương mới tổ chức rước.
Các cổ vật hiện còn tại di tích gồm: 01 ngai thờ, 01 hộp sắc, 01 mâm thờ, 01 Bộ kiếm thờ có niên đại tạo tác thời Nguyễn. 01 Bản văn tế chữ Hán sao năm 1963 cùng nhiều hiện vật, đồ thờ tự được bổ sung vào cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI có giá trị thầm mỹ, nghệ thuật.
Đình Giang Liễu được UBND tỉnh xếp hạng di tích cấp tỉnh tại Quyết định số 161/QĐ-CT ngày 08/02/2002