Đình Hà Vỹ là nơi thờ phụng 3 vị Thủy Hải, Đăng Giang, Khổng Chúng là danh tướng của Nhị vua Hai Bà Trưng, Tam Giang là bộ hạ của Triệu Việt Vương và Đông Hải là con ông Đoàn Thượng sống vào cuối đời Lý, đầu đời Trần.
Đình Hà Vỹ tương truyền có từ năm 1426, bên trong thờ 5 vị
tướng có công chiến đấu bảo vệ đất nước. Đình được xếp hạng Di tích lịch sử văn
hóa quốc gia năm 1989. Địa chỉ tại thôn Đại Vỹ, xã Liên Hà, huyện Đông Anh, Hà
Nội.
Lược sử
Xã Liên Hà hiện nay gồm 8 thôn: Châu Phong, Giao Tác, Đại Vỹ,
Hà Lỗ, Lỗ Khê, Hà Hương, Thù Lỗ, Hà Phong. Thôn Hà Lỗ là nơi đặt trụ sở UBND
xã, còn thôn Châu Phong là nơi có trường THCS Liên Hà. Đặc biệt xã có 3 ngôi
đình lớn là Lỗ Khê, Hà Lỗ và Hà Vỹ, đều nổi tiếng là di tích quốc gia.
Theo truyền thuyết, khi An Dương Vương định đô đã ra lệnh
cho dân cũ ở Cổ Loa phải dời đi để lấy đất xây đắp Loa Thành. Dân không muốn
đi, nhưng do phải tuân theo phép nước nên đã tâu:”Cứ cho chúng tôi xuống khu đất
trũng kia, dù khổ mấy cũng cam lòng”.
An Dương Vương bảo: ”Đó là dân cà quẫy” và chấp nhận cho dân
xuống lập trang Hà Hào - một vùng trũng thấp vốn là đoạn sông cụt của sông
Hoàng Giang. Từ lời nói của vua, dân quanh vùng gọi trang Hà Hào là “Cà Quẫy”,
sau chệch thành “Quậy”.
Khi chuyển đi, dân Cổ Loa (Chạ Chủ) đã định cư đầu
tiên ở xóm Nguyên Hương với dòng họ đầu tiên là họ Vũ. Tiếp đến là các họ: Lê,
Ngô, Nguyễn, Dương, Phạm …, lập thành cụm dân cư mang tên Quậy Cả, tên chữ Đại
Vỹ.
Từ Quậy Cả - Đại Vỹ, dân làng Chạ Chủ - Cổ Loa mở mang
ra xung quanh thêm hai cụm dân cư nữa là làng Quậy Sau, tên chữ Châu Phong và
Quậy Rào, tên chữ Giao Tác.
Cả ba làng hợp thành trang Hà Hào, gọi chung là ba làng Quậy;
đến thế kỷ 13 đổi thành làng Hà Vỹ, sau thành xã Hà Vỹ; đầu thế kỷ 19 thuộc tổng
Hà Lỗ, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (từ tháng 11-1831 đổi thành tỉnh
Bắc Ninh).
Theo thần tích, đình Hà Vỹ có từ năm 1426, khi vua Lê
Lợi cho phép dân làng xây để thờ 5 vị tướng có công giúp nước ở những giai đoạn
lịch sử khác nhau. 3 vị Thủy Hải, Đăng Giang, Khổng Chúng là thuộc tướng của Ha
Bà Trưng, Tam Giang là bộ hạ của Triệu Việt Vương và Đông Hải là con ông Đoàn
Thượng sống vào cuối đời Lý, đầu đời Trần.
Ba vị Thánh thời Hai Bà Trưng: Thủy Hải, Đăng Giang và Khổng
Chúng.
Danh tướng Thủy Hải và Đăng Giang là hai anh em sinh đôi
cùng ngày 10 tháng Giêng năm Canh Thìn (năm 20 SCN). Thân mẫu của hai ông là bà
họ Phùng, thân phụ là ông Trương Long quê ở Đường Lâm, Sơn Tây.
Trong khoảng thời gian ấy ông bà Trương Long đến trang Hà
Hào dậy học và sinh ra Thủy Hải và Đăng Giang. Hai ông sinh ra có tư chất khác
thường. Đến năm 16 tuổi hai ông đã có vóc người to lớn và sức lực hơn người lại
thông minh tài giỏi võ nghệ cao cường. Khi hai ông được 18 tuổi thì cha mẹ đều
mất, hai ông chọn đất tốt để mai táng cha mẹ.
Ba năm tang hết cũng là lúc Tô Định đang cai trị nước ta, giết
người tàn bạo. Thi Sách - chồng của chúa bà Trưng Trắc - cũng bị chúng giết hại.
Trả thù chồng đền nợ nước, chúa bà Trưng Trắc cùng em gái là Trưng Nhị đã phất
cờ khởi nghĩa kêu gọi muôn dân chống giặc.
Hưởng ứng lời kêu gọi cứu nước của hai bà Trưng, hai đức ông
Thủy Hải và Đăng Giang nghe chiếu chỉ của động lòng hưởng ứng; Ngay hôm ấy hai
ông đã chiêu mộ được 500 binh sĩ rồi đem quân đến thẳng bản doanh chúa bà Trưng
Trắc. Nhị chúa Hai Bà Trưng thấy hai ông tài văn, giỏi võ bèn tuyển dụng và
phong tước cho hai ông:
- Thủy Hải làm Tả tướng quân đô chỉ huy sứ;
- Đăng Giang làm Hữu tướng quân đô chỉ huy sứ.
Sau đó hai ông về trang Hà Hào truyền lệnh cho binh sĩ giữ
trại lập đồn đóng quân, sửa sang Miếu thờ và mở tiệc khao quân một ngày, mời cả
các cụ trong làng đến dự, hai ông bảo rằng:"Ngày trước, Mẹ ta thường nói với
anh em ta: làng này phải thờ các Thần linh ra đời".
Các cụ nghe thấy rất mừng, bèn làm lễ bái giá, sau đó thấy sứ
giả mang tờ chiếu lệnh cho hai ông đi đánh giặc Tô Định. Hai ông Thủy Hải và
Đăng Giang cùng với quân của Hai Bà Trưng đồng loạt đánh giặc, giặc thua to, Tô
Định chạy trốn về nước. Bà Trưng lên ngôi, xưng là Trưng Nữ Vương, sắc phong
cho hai ngài là "Đô chỉ huy sứ kiêm điện tiền phụ chính".
Đất nước yên bình được ba năm thì nhà Hán lại sai Mã Viện
sang xâm chiếm nước ta, Nhị vua Hai Bà Trưng lại giao cho hai ông cầm quân đánh
giặc Mã Viện.
Trong thời gian ấy ở trang Hà Hào có ông Khổng Chúng cũng có
tài thao lược và sức lực hơn người theo Nhị vua Hai Bà Trưng và được Nữ vương
Trưng Trắc sắc phong là “Tiền lộ tướng quân”.
Quân Mã Viện đông và mạnh, lại rất tàn bạo, danh tướng Khổng
Chúng đem quân đánh thẳng vào đồn Mã Viện nhưng không thành, Binh tướng Nhị vua
Hai Bà Trưng và của hai danh tướng Thủy Hải, Đăng Giang chiến đấu kiên cường
nhưng không thắng nổi phải rút lui, hy sinh anh dũng vào ngày 10 tháng 7 năm 43
SCN, tướng Khổng Chúng thu được 50 binh sĩ trở về trang Hà Hào cố thủ.
Mã Viện đuổi theo, ông cùng các quân sĩ - có sự giúp sức của
nhân dân Hà Hào - chiến đấu đến cùng. Trong lúc giao chiến Khổng Chúng không
may bị ngã ngựa và hy sinh ngày 12 tháng 9 cùng năm (năm 43 SCN). Mộ ngài được
đặt ở khu đồng Sứ, Quần Trùng thôn Châu Phong.
Vua Đinh Tiên Hoàng (968 - 979) sắc phong hai đức ông Thủy Hải
và Đăng Giang là Thượng đẳng thần.
Đến thời Tiền Lê (980 - 1009), Vua Lê Đại Hành lại sắc phong
cho ba đức ông đều đại danh Đại Vương:
- Thủy Hải và Đăng Giang: Hiển ứng linh thông Đại vương;
- Khổng Chúng: Linh ứng sáng triết Đại vương.
Đến các thời đại vua sau đều sắc phong cho các ông là Thần
và chuẩn y cho dân làng Hà Vỹ phải thờ ba vị Thần.
Vị Thánh thứ tư: Tam Giang thời Lý Nam Đế - Triệu Quang Phục
(thế kỷ thứ VI).
Đức ông Tam Giang sinh ngày 5 tháng Giêng năm 522 cha là người
họ Trương, mẹ là người họ Đào ở trang Vân Mẫu huyện Quế Lương lộ Kinh Bắc (nay
là huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh).
Khi Triệu Quang Phục thay Lý Nam Đế đóng quân ở đầm Dạ Trạch.
Ông Tam Giang nghe theo chiếu chỉ bèn chiêu mộ quân rồi đến đầm Dạ Trạch giúp
Triệu Quang Phục và được Triệu Quang Phục cử làm “Chỉ huy sứ dư tả tướng quân”.
Ông Tam Giang đã về trang Hà Hào đóng quân, thiết lập đồn trại
để đối phó với quân của Trần Bá Tiên. Đến năm 550 nhân nhà Lương có loạn to ông
đã cùng với Triệu Quang Phục đánh thắng quân nhà Lương. Triệu Quang Phục lên
ngôi Vua, xưng là Triệu Việt Vương. Hai mươi năm sau, (năm 571) Lý Phật Tử phản
trắc đoạt quyền, Triệu Việt Vương phải chạy ra cửa biển tuẫn tiết.
Ông Tam Giang không theo Lý Phật Tử mà trở về An Phú, Hương
La trang đến đầu bến Giang Tân gần ngã Ba Xà sông Như Nguyệt (sông Cầu) gieo
mình xuống dòng sông tự vẫn ngày 10 tháng 4 năm 571 vì không muốn “hai lòng” thờ
hai Vua.
Dân Hà Hào đã tế lễ đón Thần về thờ ở Đình làng.
Thánh Tam Giang là người tài giỏi có khí tiết nên các đời vua sau đều sắc phong
cho ông là “Phổ trạch Đại vương” và “Thượng đẳng thần”.
Vị Thánh thứ năm: Đông Hải - đầu thế kỷ thứ XIII (cuối Lý đầu
Trần).
Ông Đông Hải sinh ngày 12 tháng Giêng năm Canh Ngọ (1210),
cha là Đoàn Thượng (làm quan to nhà Lý), mẹ là Phùng Thị Chinh người làng Hồng
Thị, Châu Giang, Hải Dương.
Khi mới sinh, Đông Hải đã khôi ngô tuấn tú, khi lớn lên đi học
lại thông minh, mới 16 tuổi đã hiểu rộng, đọc kỹ binh thư và có võ nghệ cao cường.
Khi ông 21 tuổi thì nhà Lý đã suy. Lý Chiêu Hoàng lên ngôi được hai năm thì nhường
ngôi cho chồng là Trần Cảnh dưới sự xếp đặt của Trần Thủ Độ (năm Ất Dậu -
1225).
Ông Đông Hải thấy nước nhà chuyển sang triều Trần không
quang minh chính đại nên ông bất đồng căm phẫn có trí phục thù. Năm Canh Dần
(1230) ông chiêu dụ các triều thần đồng quan điểm và xây dựng lực lượng luyện tập
binh mã chờ cơ hội để giành lại ngôi Vua cho họ Lý.
Ông đã chiêu mộ được 5 vạn quân sĩ rồi tiến quân sang đạo
Kinh Bắc phủ Từ Sơn huyện Đông Ngàn làng Hà Vỹ (tên cũ là Hà Hào). Đến Hà Vỹ,
ông thấy ở đây “non nước quanh co, địa thế hiểm trở” rất tốt cho việc xây dựng
căn cứ để đánh lại nhà Trần.
Nhân dân Hà Vỹ đã giúp đỡ nghĩa quân và ủng hộ ông. Ông Đông
Hải đã đem quân đánh Trần Thái Tông (Trần Cảnh). Thái Tông không đánh mà đưa
thư giảng hòa và phong tước cho ông, Đức ông tự xưng là Đông Hải Vương chiếm giữ
vùng Đông Ngàn nhưng chỉ được ba năm thì mất (ngày 10 tháng 11 năm Nhâm Thìn -
1232).
Năm 1427 Lê Lợi đã đóng quân ở làng Hà Vỹ, đêm ngủ mộng thấy
các thần âm phù đánh giặc “xuất quân chiến đấu là thắng to”.
Hôm sau Lê Lợi cử tướng Trần Lưu đem quân đi đánh giặc Minh
xâm lược. Quân Minh thua to, Liễu Thăng bị chém đầu ở ải Chi Lăng.
Năm Mậu Tý (1428) Lê Lợi lên ngôi tức là Vua Lê Thái Tổ đã
gia phong cho tướng sĩ. Ngài bảo rằng “Đánh thắng giặc Minh cũng là nhờ các thần
âm phù hộ” giúp sức bèn phong: Đông Hải, Thủy Hải là linh ứng Đại Vương còn
Đăng Giang là hiệu ứng Đại Vương.
Nguồn: Hà Vỹ - Lịch sử
và văn hóa, Phạm Minh Tùng, NXB Thanh niên, 2009, tr.37-47
Kiến trúc
Đình Hà Vỹ được xây dựng trên một khu đất bằng phẳng và cao
ráo nằm ngay sát con đường làng; mặt quay về hướng tây. Đình đã trải qua nhiều
lần trùng tu và mở rộng, lớn nhất là vào các năm 1520, 1744, 1900 và 2000. Dáng
dấp mà ta thấy ngày nay mang đậm phong cách nghệ thuật kiến trúc thời Nguyễn.
Sân trước đình rất rộng và nhìn ra một cái ao dài hình chữ
nhật. Tam quan được xây kiểu nghi môn với 4 trụ biểu. Sân trong hơi nhỏ nhưng
có 2 cây bàng cổ thụ che mát, hai bên có 2 nhà tả, hữu mạc.
Đình làm theo lối kiến trúc hình chữ “Công”, gồm toà đại
đình rộng 7 gian 2 dĩ với hậu cung 3 gian. Mái đình lớp ngói ta, ở giữa đắp lưỡng
long triều nguyệt. Bên dưới có kết cấu khung gỗ do hệ thống xà ngang, xà dọc ăn
mộng với nhau.
Trên thượng lương của Đình còn ghi
rõ:
Đình được xây dựng lần đầu vào năm Canh Thìn
(1520), trên nền miếu (hoặc đền) xưa, sửa chữa năm Cảnh Hưng thứ 5 (1744), và
làm lại to, rộng hơn vào niên hiệu Thành Thái thứ 12 năm Canh Tý (1900).
Kiến trúc ngôi Đình Hà Vỹ theo bố cục chữ công (工) bề thế to lớn uy nghi. Tòa đại Đình có bẩy gian hai dĩ
(Đình cũ có năm gian hai dĩ) với chiều dài cả hiên là 29,7m, rộng 14,5m, cao
hơn 6,5m với tổng diện tích là 432m2.
Hậu cung có chiều dài 10,8m, rộng 7,5m, gồm ba
gian. Diện tích sử dụng là 81m2. Các gian của Đình bố trí không đều nhau: Gian
giữa rộng 4m, gian cạnh 3,4m và 3m, cân xứng sang hai bên, dĩ 1,85m và hiên
1,2m.
Vì kèo của tòa đại Đình được thiết
kế theo kiểu tứ trụ, kẻ chồng, cốn đội hoành, một kiến trúc chắc khỏe với kết cấu
lục hàng châu. Hệ thống các cột của Đình khá lớn và bố trí không đều, cột cái
to nhất với đường kính 0,85m và các cột con đường kính từ 0,65 đến 0,75m. Các
chân cột đều có tảng đá kê khít với chân và làm chìm xuống nền Đình.
Xung quanh làm hiên thoáng, trên làm đao cong, dưới
thả kẻ tạo sự cân bằng và vững chắc cho ngôi Đình.
Mái Đình do độ cong của bốn đao, bốn góc và trang
trí nổi "lưỡng Long chầu Nguyệt" trên bờ nóc, cho ta cảm thấy như chiếc
thuyền rồng, phần mái của hậu cung trổ cao thoáng, cân xứng với tòa đại Đình
phía trước.
Nghệ thuật điêu khắc trong Đình được sử dụng trang
trí chủ yếu trên các bức cốn và đầu dư. Cốn mặt tiền gian giữa được chạm bằng
“Rồng phun nước”, mặt bên chạm “Phượng vờn mây”; Các cốn hậu gian giữa chạm
trang trí với nhiều hoa tiết đẹp mắt.
Các đầu dư đều chạm lồng các
hình đầu rồng với nhiều vẻ nhiều kiểu dạng, thể hiện tài nghệ kiến trúc chạm khắc:
Hoa, xoắn rau trơn... Hai đầu kẻ gian giữa chạm lân hóa, các tầu được chạm nổi
lên.
Trước giường hành trong cung được
chạm nổi lên bức "Thiều châu trương nhĩ", chạm nổi "lưỡng Long
chầu Nguyệt" sơn son thiếp vàng. Hai diềm dọc theo cột hậu chạm "Rồng
phun nước", ngoài cửa vào cung cấm cũng là một bức "Thiều châu trương
nhĩ". Chạm "lưỡng Long chầu Nguyệt", diềm hai bên chạm "Rồng
phun nước", trên bức "Thiều châu" là cốn chạm "Nạ đội
nóc", hai bên cửa cấm có cốn chạm "Rồng ngậm hoành", dưới cốn cửa
cấm là bức gỗ chạm "Lan đằng", chính giữa chạm nổi thiếp vàng ba chữ:
"Tối linh từ".
Hai bên cửa vào cung đều chạm rồng
hóa, chân đạp long mã và chạm "tứ qúy" trên một khung gỗ. Gian chính
giữa được bưng kín với màn giếng sơn son. Các góc và cạnh đều trang trí các
hình hoa, hài hòa và trang nhã.
Đặc biệt cửa võng của Đình Hà Vỹ
làm rất kỳ công, được sơn son thiếp vàng miêu tả "tứ linh, tứ quý",
các hình khắc sống động hiên chuyết lấy nhau. Ngoài hệ "tứ linh, tứ
qúy", cửa võng còn có chạm "Lan đằng", hoa lá, long mã. Trên cửa
võng chạm nổi bốn chữ “Thánh cung vạn tuế”.
Sân Đình rất rộng (khoảng 450m2) xây toàn bằng gạch
vuông to do làng Bát Tràng sản xuất, hai bên sân có trồng hai cây bàng (nay vẫn
còn) trước sân là ao Đình có bờ xây gạch, sát bờ là bệ vàng dùng để đốt vàng mã
hóa chân hương, hai góc sân có bến rửa chân (ao Đình đã lấp cùng với ao cổng Sứ
để làm chợ Quậy như ngày nay).
Cạnh Đình còn có Văn Chỉ nơi thờ
đức Khổng Tử do các nho sĩ Hà Vỹ xây dựng (nay không còn).
Đình Hà Vỹ hiện nay còn lưu giữ
được nhiều đồ thờ qúy làm bằng gỗ, sứ và đồng đặt ở các ban thờ trong Đình.
Trong cửa cấm (hậu cung) có:
- Trên ban thờ có 5 long ngai bằng gỗ, tay đầu rồng
sơn son thiếp vàng, biểu tượng cho chỗ ngồi của 5 vị thần, trước mỗi ngai là một
hòm sắc phong của các triều Vua trước đây.
Hiện nay ở Đình còn lưu được 42
đạo sắc phong của 10 triều đại Vua nước ta phong tặng 15 lần cho các Thánh ở
Đình. Đạo sớm nhất vào năm Cảnh Hưng thứ 44 (1783), đạo gần đây nhất vào năm Khải
Định thứ 9 (1924).
- Thần tích: 2 quyển - làm năm Vĩnh Hựu thứ 6
(1740), sao lại năm Thành Thái thứ 19 (1907) và các tài liệu như hương ước, mục
lục…
- Sập hội đồng hình chữ nhật kích thước: 2m x 1,8m
x 0,55m, chân qùy, chiện, bốn mặt chạm dạ cá, mặt sập 4 góc bao lan hình chiện.
- Một số đồ thờ: Mâm bồng bằng đồng, mâm bồng bằng
gỗ hình vuông, hình tròn, sơn son thiếp vàng, chân qùy dạ cá, chóe sứ, lục
bình, đài nến, hạc đồng, nồi hương…
- Bàn thờ bệ hạ có mâm bồng bằng gỗ hình bầu dục,
mâm bồng bằng đồng, nồi hương.
- Hoành phi trong hậu cung ghi bốn chữ: "Ngũ
nhạc giáng thần".
Ngoài cửa cấm có:
- Sập hội đồng chân qùy bằng gỗ hình chữ nhật có cổ
chạm lan đằng dạ cá, chân qùy.
- Giá gỗ sơn son thiếp vàng có 9 thanh kiếm gỗ liền
bao cũng sơn son thiếp vàng
- Hương án đặt chính giữa dưới cửa võng được sơn
son thiếp vàng có kích thước lớn: 2,3 m x 1,11m x 2m, chạm trổ bốn mặt công
phu, trên mặt bốn góc có 4 bao lan chạm lưỡng long, ô cổ chạm cúc, trúc, thông,
mai tiếp đến là rồng chầu nạ.
Hai bên là nạ đội bệ, xà dưới bệ
chạm chiện lá, ô giữa chạm rồng chầu nguyệt, quy vờn mây, bộ tứ linh và chạm nạ,
các ô bên chạm long mã, phượng lân hý cầu, hai bên chạm thất sự, ô giữa chạm rồng
quấn, hai bên chạm long, mã rồi đến các ô cạnh phần dưới chạm trúc mai, nạ đội
ô giữa và lèo chạm mây tan.
- Nồi hương sành da lươn lớn đặt trên hương án.
- Trước hương án có giá đèn bằng sắt như một cây
hoa. Hai bên là hai con hạc bằng gỗ cao to đứng trên lưng con rùa.
- Hiên án có 6 bức hoành phi sơn then chữ vàng.
- Xưa có tới hơn 30 đôi câu đối treo ở các cột
Đình.
Đình Hà Vỹ trước đây có cửa bức
bàn bưng kín xung quanh và có sàn gỗ lim nhiều bậc lát khắp các gian (trừ ba
gian giữa lòng đình). Trong thời gian kháng chiến chống thực dân Pháp, người ta
đã dỡ sàn, dỡ cửa và các câu đối của Đình để lấy gỗ làm hầm.
Năm 1951, Đình được xây bao quanh bằng gạch, khi không
còn sàn Đình, nhân dân đã lát nền Đình bằng gạch lục, có thời kỳ một bên Đình
(phía Đại Vĩ) còn là nơi thờ Phật. Năm 1961, do thiếu chỗ học, Đình còn được
ngăn ra làm hai lớp học của trường cấp II Liên Hà (chỉ để gian giữa làm nơi lễ
Thánh).
Sau ngày thống nhất đất nước nhiều gia đình, dòng họ
và các hội đồng niên của hai thôn Đại Vĩ và Giao Tác đã cung tiến nhiều hiện vật
vào Đình như câu đối, hoành phi, cờ Tổ quốc, cờ Thần, trống, nồi hương…
Năm 2000, Ban Quản lý di tích Đình Hà Vỹ và chính
quyền hai thôn Đại Vĩ và Giao Tác đã xây bức tường Bạch mã bằng tiền ủng hộ của
nhân dân hai thôn.
Năm 2004, Lãnh đạo hai thôn lại huy động tiền cung
tiến của các hội đồng niên và một số gia đình hảo tâm cho lát lại sân Đình bằng
gạch ép xi măng mầu.
Năm 2005, nền trong Đình được lát lại bằng gạch
nung vuông (30x30) do gia đình ông Ngô Văn Ninh thôn Đại Vĩ cung tiến.
Năm 2007:
- Hội đồng niên Canh Tuất (sinh năm 1970) cung tiến
01 bộ lư hương bằng đồng;
- Hội đồng niên Mậu Thân (sinh năm 1968) cung tiến
01 bộ đỉnh hương bằng đồng;
- Hội đồng niên Canh Tý (sinh năm 1960) cung tiến
kinh phí để làm cửa gỗ ở hai đầu hồi Đình.
Cuối năm 2007, Ban Quản lý di tích cho cải tạo ao
Đình, xây gạch bờ ao, làm đường xung quanh…
Đầu năm 2008, sân Đình (ngoài tường Bạch mã) được
lát lại bằng gạch ép xi măng mầu do gia đình ông Lê Văn Vĩnh thôn Giao Tác cung
tiến;
Tháng 10 năm 2008, Hội đồng niên Ất Tý (sinh năm
1965) cung tiến bộ gươm trường bát bửu bằng gỗ sơn son thiếp vàng…
Đình Hà Vỹ ở vào vị trí trung độ của ba thôn nằm giữa
hai thôn Đại Vĩ và Giao Tác, nên thời nào cũng là trung tâm văn hóa của cả
làng. Đình là nơi hội họp bàn định các công việc của làng, nơi sinh hoạt văn
hóa, tổ chức lễ hội, mít tinh, bầu cử, thi đấu thể thao, biểu diễn văn nghệ…
nơi đón các anh bộ đội về làng và tiễn đưa các chàng trai lên đường bảo vệ Tổ
quốc. Đình là nơi chứng kiến các sự kiện lịch sử thăng trầm của bao thế hệ nhân
dân Hà Vỹ…
Với kiến trúc đồ sộ theo dáng dấp cuối Lê đầu Nguyễn,
Đình Hà Vỹ là một công trình kiến trúc đặc sắc của quê hương, là sản phẩm chứng
minh cho nghề nghiệp truyền thống đất thợ của dân làng Quậy.
Di sản
Trong đình hiện còn lưu giữ được khá nhiều hiện vật có giá
trị và các đạo sắc phong, mang niên hiệu sớm nhất là đạo sắc năm Cảnh Hưng 44
(1783). Đình vừa là nơi diễn ra các hoạt động văn hoá cộng đồng của nhân dân địa
phương, vừa là nơi hàng năm tổ chức ngày giỗ các vị thành hoàng và lễ hội đình
từ 12 đến 30 tháng Giêng.
Trong lễ hội thường có những trò đua tài truyền thống như đấu
vật, thi dệt cửi, nấu ăn và mở hội xuống đồng thi cấy. Ngày 21-01-1989 đình Hà
Vỹ đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa quốc gia.
Ths Nguyễn Thy Ngà tổng hợp