Đình làng Hồi Quan, phường Tương Giang, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, thờ phụng đức Thánh Tam Quang, danh tướng phò giúp Nhị vua Hai Bà Trưng đánh giặc Đông Hán, thờ hậu thần bà Nguyễn Thị Ngọc Thường, người địa phương đã công đức trùng tu đình.
Người dân Hồi Quan rất tự hào về thế đất cũng như ngôi đình
của làng. Theo ngọc phả của đình, thế đất của làng có dáng thuyền rồng, đầu rồng
là khu đất xây chùa, mắt rồng là cái giếng làng, đuôi rồng là phần đất cuối
làng. Đất nền đình là đáy thuyền, thường là nơi thủy tụ, ngôi đình chính là lâu
thuyền.
Cũng theo thần phả và các tài liệu lịch sử, đình làng Hồi
Quan khởi công xây dựng vào ngày 18 tháng 11 năm Giáp Ngọ (năm 1714), lễ đặt
thượng lương ngày 19 tháng 12 cùng năm, lễ khánh thành tháng 5 năm Ất Mùi, đời
Vĩnh Thịnh (năm 1715).
Đình Hồi Quan được xây dựng trên khuôn viên rộng, gồm Nghi
môn, tòa Tiền Tế, tòa Đại Bái, Hậu Cung. Tòa Tiền tế xây thông phong kiểu
phương đình, 4 mái đao cong xung quanh.
Tòa Đại bái có kiến trúc kiểu nhà sàn. bốn mái xòe rộng, nóc
cao mái chảy dốc, bờ nóc và bờ dải gắn gạch hoa chanh.
Đầu bờ nóc là con kìm đuôi cuộn cắn bờ nóc. Bốn đầu đao đình
đắp hình đầu phượng cách điệu. Hai đầu hồi xây bằng gạch, mặt trước và sau đình
lắp cửa chấn song gỗ. Hai đầu hồi ngôi đình xây bằng gạch, mặt trước và sau
đình làm theo lối thượng song hạ bản. Phần hậu cung xây kín bằng tường gạch.
Tòa đại đình có 5 gian chính, 2 gian phụ, nền đình cao
0,35m, mặt bằng chiều dài 26,9m, chiều rộng 14,45m. Độ cao của bờ nóc đến nền
đình khoảng 7m, chiều cao từ mũi ngói giọt nước đến nền đình là 2,35m. Nhà tiền
tế của ngôi đình có kiểu thức độc đáo như một phương đình.
Từ nền đình lên đến bụng câu đầu cao 5,20m, lên đến bụng xà
nóc là 6,75m; Chiều rộng các gian không giống nhau. Gian giữa rộng hơn cả, chiều
rộng 4,85m, gian cạnh rộng 4,40m. Gian tiếp theo 3,85m, tiếp đến 2 gian xép rộng
1,45m. Sàn đình làm thành 3 cấp, cấp độ cao nhất thuộc gian xép là 0,87m, phần
sàn còn lại có độ cao 0,70m. Sàn lát bằng
gỗ lim ghét sát vào nhau. Các gian bên cạnh đều có sàn cao, nhưng hiện nay chỉ
còn sàn ở phía bên trái đình.
Ngôi đình có tất cả 48 cây cột, chia thành 8 hàng ngang và 6
hàng dọc. Các cột cái cao 5,80m, chu vi 1,75m. Cột quân cao 3,45m (cả đấu), chu
vi 1,60m. Cột hiên cao 2,75m, chu vi 1,40m. Khoảng cách giữa các cột quân là 2,4m, cột quân cách
cột hiên 1,45m. Tất cả các cột hiên đều cách mép nền đình 1,40m.
Từ hàng cột quân trở lên, đầu mỗi hàng cột và đuôi mỗi con
rường đỡ một chiếc hoành. Trên các kẻ từ cột quân trở xuống, ngoài xà nóc và
tàu mái có tới 13 chiếc hoành nữa, nằm trên một mặt phẳng nghiêng để giữ cho bộ
mái luôn vững chãi.
Kết cấu của đình do 4 hiệp thợ cùng thi công, mỗi hiệp làm
riêng một góc đình, nhưng lắp lại rất ăn khớp với nhau. Bốn vì nóc của đình có
cấu trúc theo lối chồng rường, nhưng có 4 góc đình thì có 3 góc dùng xà nách,
riêng góc ngoài bên trái lại dùng kẻ. Các con rường thuộc 2 vì nóc gian giữa có
đuôi rường chạm mây lá, các con rường của 2 vì nóc bên cạnh chỉ bào soi đơn giản.
Lối kết cấu chồng rường theo kiểu thượng tam hạ tứ.
Những mảng chạm khắc trang trí của đình làng Hồi Quan rất đặc
sắc. Trên mỗi chiếc đầu dư của đình Hồi Quan được tạc cả một ổ rồng cuộn trong
mây. Ván trên xà nách có rất nhiều hình rồng chạm lộng, rồng chạm theo bố cục dọc
và theo chiều ngang. Ở đây cũng có khá nhiều hình tượng cô tiên cưỡi trên các đầu
rồng. Đuôi các con rường trong các bức cốn khi thì chạm hình rồng, khi thì chạm
hình con nghê nằm ngửa gãi, mặt cười hóm hỉnh, tinh nghịch.
Người dân trong làng kể lại, các mảng chạm khắc trang trí của
đình Hồi Quan rất phong phú, bởi có sự tham gia của bốn hiệp thợ cùng góp công
sức tạo tác ngôi đình. Góc bên trái đình
phía trước chạm khắc đơn giản.
Góc đình bên phải phía sau chạm khắc cảnh đánh vật và đôi gà
chọi, phía trước có bức chạm hình tượng con khỉ nằm ngửa đang gãi, miệng cười hả
hê, đặc biệt những nét chạm khắc tinh tế cho thấy đã lột tả được tính hiếu động
vui nhộn của con vật. (có khá nhiều bức chạm này nay không còn lưu giữ tại
đình, có thể đã bị mất hoặc được lưu giữ ở nơi khác).
Trên các đầu bẩy và các ván nong đỡ đầu hoành các diện tích
chạm khắc khá lớn, tỷ mỷ. Hình tượng rồng ổ, rồng mẹ khi thì há miệng ngậm lấy
tàu mái, khi thì luồn lách trong những tia mây lửa, nét mác, hoặc đùa nghịch với
rồng con, đôi khi vui chơi với cả các con thú khác. Đặc biệt hai chiếc đầu bẩy ở
hiên trước thuộc gian giữa, phía bên trong
đầu bẩy bên trái chạm hình con nghê đầu quay lại, miệng cười loe. Chiếc đầu bẩy bên phải mặt ngoài tạc
hình rồng mẹ, rồng con và con thú, mặt trong có cảnh người cưỡi ngựa, mình trần
mặc váy, tay phải cầm đao, tay trái cầm mộc, chân dung diễn tả khá chi tiết, thể
hiện trạng thái rất sinh động.
Các đầu cột dưới bốn chiếc câu đầu thuộc ba gian chính, nhô
ra sáu chiếc đầu dư, mỗi chiếc đầu dư này không chỉ được chạm một đầu rồng chạm
lộng, mà nhiều đầu dư chạm cả một ổ rồng cuộn trong mây. Một số con rường chạm
hình hoa, mây, rồng và nghê…đan xen quấn quýt, vui nhộn.
Các cốn ngang trên xà đùi để trơn, tập trung chạm khắc đề
tài khá phong phú cho các bức cốn dọc thuộc gian giữa. Có thể các nghệ nhân xưa đã cố ý làm đơn giản các
gian bên để tập trung chạm khắc công phu cho các bức cốn gian giữa.
Bức cốn bên phải lòng giếng được chạm khắc nhiều mô típ hoa
văn, không có một diện tích nào trống trơn. Từ xà nách ra tới ba chạc, thấy có hình một con nghê nhỏ đang nằm.
Ván trên xà nách có nhiều hình rồng chạm lộng, bố cục theo chiều dọc và theo
chiều ngang, có cả hình người cưỡi trên các đầu rồng. Hình đầu rồng và hình con
nghê là chủ yếu.
Phong cách chạm khắc
trang trí ở đình Hồi Quan đều thống nhất một ngôn ngữ tạo hình. Hầu hết trên
các đầu dư, tai cột, ván nong, cốn, cửa võng… đều được chạm khắc trang trí các
hình tượng tứ linh, tứ quí, các con thú và hình tượng rồng chầu mặt nguyệt,
hình người đánh vật, trai gái trêu ghẹo nhau, người đua thuyền, hình cô tiên cưỡi
trên lưng rồng… là những mô típ chạm khắc chủ yếu.
Qua trang trí ở đình Hồi Quan cho thấy, nếu như ở một số
ngôi đình mới chớm sang thế kỷ XVIII hình tượng con người đã vắng bóng, nét dân
gian chỉ còn ở các con vật gần gũi với người lao động, thì ở đình Hồi Quan dựng
năm 1715 vẫn giữ phong cách tạo hình của thế kỷ XVII, đây cũng là giai đoạn
phát triển rực rỡ nhất của nghệ thuật chạm khắc dân gian Việt Nam.
Đó chính là nét đặc sắc của những nghệ nhân làm đình thể hiện
tinh thần ưa chuộng tự do, phóng khoáng trong sáng tạo nghệ thuật của người dân
Kinh Bắc xưa. Cũng như một số ngôi đình thuộc các địa phương khác của thành phố
Từ Sơn còn lại cho đến ngày nay như đình Cẩm Giang, đình Mai Động, đình Đồng Kỵ,
đình Tam Lư… đều là những công trình kiến trúc, chạm khắc nghệ thuật tiêu biểu.
Không những thế, đình là nơi thờ phụng, tưởng nhớ tới những danh thần có công với
nước, biểu hiện cho truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Do vậy xét về mặt nội dung, đình Hồi Quan là di tích vừa
mang giá trị lịch sử - văn hóa, vừa có giá trị về mặt kiến trúc, điêu khắc,
trang trí độc đáo. Giá trị vượt trội của ngôi đình này so với những ngôi đình
khác là nghệ thuật điêu khắc trang trí rất tinh tế và phong phú.
Đỗ Hữu Bảng
Nguồn tư liệu: Cổng thông tin điện tử Tỉnh Bắc Ninh