Đình Khả Lĩnh, xã Đại Minh, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái được xây dựng vào khoảng thế kỉ XVIII, đây là di tích lịch sử thờ phụng nhị thành hoàng Cao Sơn Đại Vương và Thành Hoàng Làng - ông tổ dòng họ Nguyễn có công khai phá vùng đất này, lập thành làng cuối thế kỷ XVII.
Đình Khả Lĩnh thuộc xã Đại Minh, huyện Yên Bình, tỉnh Yên
Bái. Đình có diện tích 2.678m2, dựa lưng vào đồi cao, mặt hướng về phía Đông Bắc.
theo kiểu chữ nhị, có tường vây bốn phía. Vị trí Đình nằm ở khu đất đẹp thuộc
thôn Khả Lĩnh, cách bờ hữu sông Chảy khoảng 400 mét.
Đình được nhân dân dựng lên để biết ơn, tưởng nhớ đến vị thần
Cao Sơn Đại Vương và Thành Hoàng Làng - ông tổ của dòng họ Nguyễn đã có công
khai phá mảnh đất này, lập thành làng vào cuối thế kỷ XVII.
Ông đã có công làm ruộng, cấy lúa nước, đưa giống cây bưởi
nay trở thành một đặc sản của vùng đất Đại Minh giúp nhân dân thoát khỏi đói
nghèo. Hiện nay bên hữu của đền vẫn còn cây bưởi tổ như một minh chứng cho thời
xa xưa.
Theo dòng lịch sử, vào cuối thế kỷ XIX nhân dân xã Đại Minh
đã anh dũng, sát cánh cùng nghĩa quân Cần Vương đào hào, đắp luỹ xây thành chống
lại sự xâm lược của thực dân Pháp.
Tháng 8/1945 cách mạng tháng 8 thành công, lá cờ đỏ sao vàng
lần đầu tiên đã được trịnh trọng treo trước cửa đình trong buổi lễ ra mắt chính
quyễn lâm thời xã. Ngày mùng 06 tháng 1 năm 1946 nhân dân nô nức đến đình bỏ
phiếu bầu cử Quốc hội khoá đầu tiên của nước Việt Nam độc lập.
Vào năm 1960 gian đại bái của đình đã bị dỡ bỏ, ngày nay còn
lại phần hậu cung có diện tích mặt bằng là 61,3m2, chiều cao của đình là 6m. Hậu
cung được xây dựng bằng vật liệu gạch và vôi vữa được chia ra làm 03 gian
thông, mái đình được lợp bằng ngói đỏ. Cửa vào đình gồm ba cửa trong đó có một
cửa chính và hai cửa phụ.
Những vị nhân thần được thờ phụng tại đình: Chính vị thờ phụng
Cao Sơn Đại Vương thượng đẳng thần, bên trái là Án Sát Đại Vương, bên phải là
Vua con Đại Vương.
Phần phía gian bên phải còn thờ hai vị thuỷ thần là Quỳnh
Hoa và Quế Hoa, bà là vợ của lạc tướng Minh Lang (thời Hùng Vương), người đã có
công cùng Thánh Gióng đánh tan giặc ân cứu nước.
Phần đại bái của Di tích Đình Khả Lĩnh đã bị dỡ bỏ từ năm
1960. Ngày nay còn lại phần hậu cung có diện tích mặt bằng là 61,3m2 (chiều dài
8,9m, chiều rộng 7m, chiều cao của Đình là 6m).
Hậu cung được xây dựng bằng vật liệu gạch, vôi vữa, chia làm
ba gian thông, nay đã hư hại, phần chữ ở hai câu đối cột đốc đã mờ không còn đọc
được nữa. Mái của hậu cung được lợp bằng ngói đã bị võng, các vì kèo gối vào tường
cũng đã bị võng và sắp mục nát. Cửa ra vào gồm có cửa giữa rộng 1,90 mét, cao
2,23 mét, hai cửa phụ có chiều rộng 1,5 mét, chiều cao 1,90 mét.
Ban thờ được xây bệ cách nền 0,8 mét, bài vị được đặt trên
bàn đóng bằng gỗ cách bệ 0,8 mét. Bài vị bên trái ghi "Quý Minh Đại Vương
Thượng Đẳng Thần". Trên bức đại tự của chính gian giữa hậu cung được đắp bốn
chữ nổi bằng chữ Hán: "Long Đường Cao Nhi", tạm dịch nghĩa: “Nhà rồng
cao vậy”.
Các bài vị làm bằng gỗ, được sơn son thiếp vàng, kích cỡ nhỡ,
có chiều rộng 13 cm, chiều dài 50 cm, hoa văn trang trí trên bài vị đơn giản.
Phía gian bên phải còn thờ tượng hai vị Thủy thần là Quỳnh Hoa và Quế Hoa, vợ của
Lạc tướng Minh Lang (thời Hùng vương), người đã có công cùng Thánh Gióng đánh
tan giặc Ân cứu nước. Bốn cột trụ biểu đình có trang trí quả găng lồng đèn, bờ
nóc đắp lưỡng long chầu nguyệt.
Phần đại bái của đình trước kia là ba gian hai chái khá rộng,
đã bị dỡ bỏ. Theo như lời kể của các cụ cao tuổi, đình được xây dựng theo lối
truyền thống, cột gỗ lim to đường kính khoảng 50 cm, mái được lợp bằng lá cọ, cột
được kê trên các tảng đá tự nhiên.
Các vì kèo, câu đầu, quá giang đều làm bằng gỗ quý và được
chạm khắc đẹp, mộng nối rất kín.
Các hiện vật trong Di tích:
Hiện nay ở Đình Khả Lĩnh còn lại những di vật sau: Ba cỗ
long ngai, ba bài vị, hai đòn cái kiệu bát cống, một thạp gốm phủ men xanh có
niên đại từ thế kỉ XIX, cao khoảng 30 cm, đường kính của miệng thạp là 17 cm.
Chiếc thạp này đã bị mất nắp và long kiệu cũng chỉ còn phần khung gỗ.
Có một thời kì, chiếc chiêng đồng đã bị thất lạc, tuy nhiên,
thời gian vừa qua chính quyền xã đã tìm được địa chỉ người cất giữ và đang vận
động người giữ hiện vật đó cúng tiến vào Đình.
Hiện vật tiếp theo là bát hương kích cỡ nhỏ, một chiếc
chuông đồng nhỏ đã bị sứt miệng. Cả hai hiện vật này đều có niên đại từ thế kỷ
XIX. Sắc phong và các đồ thờ tự khác của đình như cờ quạt, tàn tán, bát bửu,
gươm trường... đã thất tán.
Phong tục lễ hội:
Lễ chính “Nhị kì Xuân - Thu” hàng năm tổ chức 2 lần vào mùa
Xuân (ngày mùng 6 và mùng 7 tháng Giêng) và mùa Thu (ngày 11 và 12 tháng Tám âm
lịch). Lễ vật có lễ mặn (gồm thịt, thủ lợn - giống lợn đen tuyền, xôi, rượu)
và lễ chay (gồm chè kho, bánh dày, hoa quả...).
Lễ rước kiệu tổ chức theo hình thức lễ rước nước của cư dân
nông nghiệp. Đầu tiên, kiệu được rước từ đình làng xuống giếng, ao làng để cọ rửa
sạch sẽ. Sau đó, kiệu được rước vòng quanh làng, ngược lối bờ sông Chảy tới
giếng Mỏ Cò (cách Đình khoảng 400 mét) để lấy nước thờ - nước được đựng vào thạp
gốm.
Khi lấy xong nước, đoàn rước kiệu sẽ đưa về Đình để tế lễ. Lễ
rước kiệu được tổ chức vào ngày hôm trước hội Đình, tháng Giêng vào ngày mùng
6, sáng rước nước, chiều tối rước cỗ chay về Đình.
Tháng Tám rước từ ngày 11, nghi thức rước nước và cỗ cũng diễn
ra sáng và chiều tối như tháng Giêng. Trên kiệu rước bao giờ cũng thắp hương hoả
là hai ngọn nến và mâm ngũ quả.
Chiếc kiệu đi đầu đoàn rước được bốn người trai tráng khênh.
Những người này mặc quần áo kiểu ngày xưa màu đỏ, áo cổ tròn, có túi, quần may
kiểu lá tọa bằng vải nỉ đỏ, nẹp trắng, đi hài mũi vểnh có thêu thùa hoa văn.
Các cụ bà cầm phướn đi theo sau kiệu.
Đoàn rước còn nhiều nam thanh niên tham gia rước đèn ông
sao, đèn lồng, đèn xếp, đèn các con giống tứ linh. Loại đèn này do dân làng tự
làm, có thắp nến bên trong, nhìn rất vui mắt (nghi lễ này được thực hiện vào
chiều tối hôm trước lễ hội chính).
<iframe src="https://www.facebook.com/plugins/video.php?href=https%3A%2F%2Fwww.facebook.com%2F156208934464596%2Fvideos%2F1634312386756688%2F&show_text=0&width=560" width="560" height="324" style="border:none;overflow:hidden" scrolling="no" frameborder="0" allowfullscreen="true" allow="autoplay; clipboard-write; encrypted-media; picture-in-picture; web-share" allowFullScreen="true"></iframe>
Lễ tế Đình tổ chức vào buổi sáng, trong khoảng hai tiếng đồng
hồ. Nghi lễ ngắn gọn, ông trùm sau khi đã thay bát nước mới lấy từ thạp gốm về,
thắp hương, bày lễ vật cúng gồm thủ lợn luộc để nguyên và các lễ vật khác như
xôi, lễ chay, rượu, hoa quả... Ông trùm chắp tay trước cằm, từ từ tiến từ cửa
đình vào gian giữa (trung đình) từng bước chậm rãi và dừng lại trước ban thờ đọc
lời cúng Đình. Hết nghi lễ này là phần tiệc ăn tại Đình, còn lại 1/3 lễ vật được
chia cho các cụ bà tuổi từ 60 trở lên mang về nhà.
Phần hội của Đình Khả Lĩnh diễn ra rất phong phú, đa dạng,
như hát cô đầu, ả đào, chiếu chèo, phường bát âm, bơi chải theo ngòi Xẻ trước
kia ra sông Chảy (ngày nay con ngòi này đã cạn do lưu lượng sông Chảy vơi). Sới
vật được tổ chức vào dịp hội Xuân. Việc tổ chức đấu vật, bơi chải nhằm nhắc lại
tích xưa của cha ông trong việc bảo vệ giang sơn, bờ cõi, bảo vệ làng, trang ấp.
Trai tráng tham gia các sới vật, bơi chải, các nghệ nhân tham gia chiếu chèo,
hát cô đầu, phường bát âm là người của làng, ngoài ra còn ở các làng, các tổng
khác đến. Các lễ tế hàng năm của Đình Khả Lĩnh có hội xuống đồng vào rằm tháng
Giêng; ngày 25 tháng Chạp có tiệc xấp ấn (nghỉ ngơi), lễ vật cúng bằng gà thiến
luộc, cháo se, lễ cúng này diễn ra ở Đình.
Việc tổ chức các lễ hội của Đình Khả Lĩnh - xã Đại Minh là
hình thức tri ân với tiền nhân đã có công khai khẩn đất hoang, lập trang ấp, lập
làng. Lễ hội này chứa đựng bản sắc văn hóa tích cực, cần được khơi lại và phát
huy, nhằm phục vụ cho công cuộc xây dựng đời sống văn hóa cơ sở.
Hàng năm lễ hội được tổ chức hai lần vào mùa xuân vào ngày 6
-7 tháng Giêng và mùa thu ngày 11 đến 12 tháng 8 âm lịch. Phần lễ được cử hành
vào buổi sáng trong khoảng hai tiếng đồng hồ, nghi lễ ngắn gọn. Trong lễ có phần
hội được tổ chức các trò chơi dân gian như đấu vật, chọi gà, ném còn...