Đình Khương Thượng nằm ở trung tâm làng Khương Thượng, phường Khương Thượng, quận Đống Đa, Hà Nội, thờ phụng Thành hoàng làng là Phổ Hóa Hoằng Tĩnh Chiêu cảm đại vương.
Theo truyền thuyết xưa kể lại thì khi thành lập làng một đêm
trên trời có hào quang lạ kỳ chiếu xuống một cái gò lớn ở ngoài đồng của
làng.Dân làng thấy là điềm lành bèn chung tay nhau xây dựng miếu thờ ở đó. Đến
đời ông Cao Biền nhà Đường sang đã phong cho thần là Phổ Hóa Hoằng Tình Chiêu cảm
đại vương.
Đến đời vua Lý Thái Tổ, khi đắp thành Đại La, một đêm ngủ ở
miếu, gặp thần báo mộng. Đến đời nhà Lê đã mở trường thi võ ở đây, truyền đắp một
gò lớn gọi là núi Cây Cờ. Khi trong nước có giặc, thần đã âm phù, giúp vua giết
giặc. Vua cấp cho 7 mẫu công điền để làm ruộng thờ thần.
Đình xây từ lúc nào không rõ, tuy muộn nhất cũng phải vào
khoảng nửa đầu thế kỷ 17, khi làng Khương Thượng nhận bức sắc phong thành hoàng
của vua Lê Thần Tông. Văn bia cho biết năm 1772 đình đã được trùng tu to đẹp.
Thời Pháp thuộc, tổng diện tích đình từng là 9.500m2. Đình mới đây lại được
trùng tu và xây thêm đài liệt sĩ, nhưng kiến trúc chung vẫn giữ gần như nguyên
vẹn.
Từ tây sang đông, đình có các hạng mục công trình truyền thống
rất quen thuộc ở vùng đồng bằng sông Hồng như: bình phong, nghi môn, sân đình,
tháp bia, giải vũ, phương đình, đại bái, hậu cung… Sân lát gạch vuông, nhiều
khoảng rộng được tán cây che mát. Đình có diện tích đất rộng tới 6.900m2, đủ
cho hàng nghìn người dự lễ hội.
Hai tháp bia nhỏ nằm gần giữa sân làm tôn lên vẻ đẹp của các
cổ thụ in bóng và toà phương đình khá lớn đứng ở sau. Phương đình như một sân
khấu nhỏ xây chính giữa khuôn viên, hai bên cách ra một không gian thông thoáng
dành cho những khán giả ở phía trước hai dãy nhà tả hữu vu rộng 5 gian. Trải đều
sức nặng vào 16 cây cột là 2 tầng mái phương đình lợp ngói ta với các đầu đao uốn
cong nổi bật trên nền trời xanh và toà đại đình.
Toà đại đình rộng 7 gian 2 chái và sâu tới 31m, những cột to
đều làm bằng gỗ lim, gỗ táu. Các đầu dư cốn nối xà bẩy được chạm khắc rồng, phượng
tứ hình theo các phong cách nghệ thuật thời Lê, Nguyễn. Ba gian giữa là trung
đình, nơi thờ cúng tế tự, có đủ án thư, cửa võng, hoành phi, câu đối, binh khí
thếp vàng và cột sơn son. Những gian hai bên với các hàng cột mộc là nơi cất giữ
đạo cụ phục vụ lễ lạt và hội họp, ăn uống của các bậc trưởng lão thuộc hai giáp
Bắc, Đoài. Hậu cung rộng 3 gian, bên góc trái cuối sân hậu là lò thiêu hương.
Đôi câu đối ở mặt sau cổng đình nêu cao vị thế của làng và
thành hoàng:
Tự Hồng Lạc dĩ lai ấp vu Khương Quy Động Long Biên sơn hà củng
cố
Trung thiên địa tịnh lập đẳng nhi thượng loan bằng phượng vũ
nhật nguyệt quang hoa
Nghĩa là:
Từ đời Hồng Lạc đến nay mở mang Khương ấp, Quy Động Long
Biên non sông bền vững
Giữa cõi đất trời đều đứng trên bậc Thượng đẳng, loan bay
phượng múa nhật nguyệt sáng tươi.
Trong đình Khương Thượng đang lưu giữ 20 sắc phong của các
triều vua, bao gồm 12 sắc phong thời Lê, 2 thời Tây Sơn, 6 thời Nguyễn. Sắc cổ
nhất được phong từ năm 1642 bởi Lê Thần Tông, sắc cuối cùng do Khải Định phong
năm 1924. Trước kia, đình từng có 9 bức hoành phi và 36 đôi câu đối chữ Hán. Hiện
nay chỉ còn lại 4 hoành phi cổ và đã phục hồi được 15 đôi câu đối. Bản sao những
sắc này do Trường Viễn Đông Bác Cổ sưu tầm năm 1938, hiện nay vẫn còn được lưu
trữ ở Trung tâm Thông tin khoa học xã hội.
Hội đình Khương Thượng được tiến hành hằng năm vào ngày 12
tháng 2 âm lịch, tổ chức vui chơi ca hát và tưởng niệm sự kiện xuất hiện hào
quang trên gò Động Rùa xưa kia. Dân làng hiện nay vẫn giữ được nhiều truyền thống
cũ. Lễ nghi thường bao gồm các tiết mục: lễ khai mạc, lễ dâng hương, lễ viếng
liệt sĩ, lễ tế cáo yết Thành hoàng. Từng dòng họ hoặc gia đình tiêu biểu được mời
tham gia tế lễ và nêu cao thành tựu của mình. Làng cũng cho lập các gian trưởng
lão, quán thư pháp, văn tải đạo, mời biểu diễn văn nghệ trong đình và hát quan
họ trên hồ.
Đình làng Khương Thượng
được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia vào
năm 1990.