Đình làng Khương Thượng thờ phụng Thành hoàng Làng là thần Quy Động, ở số 165 phố Khương Thượng, quận Đống Đa, Hà Nội.
Đình Khương Thượng toạ lạc trước một hồ nhỏ xây kè đá, con
đường làng cũ đi ngang qua giữa bức bình phong lớn ven hồ và cổng đình (mới)
nay đã trở thành phố. Cổng tam quan cũ đứng ngay cạnh góc phía nam của hồ, chỉ
cách cầu ao chừng vài chục bước về bên tay trái.
Hồ bán nguyệt rộng 3.600m2 cùng nhiều cây cổ thụ ở cả trong
lẫn ngoài sân tạo nên một không gian xanh hài hòa và tĩnh lặng ngay giữa khu
dân cư thị thành đông đúc. Từ lâu nơi đây đã trở thành khu vực vui chơi, thể
thao của thanh thiếu niên và nghỉ ngơi, đánh cờ, tập dưỡng sinh của người cao
tuổi.
Đình thờ một vị thiên thần có công phù hộ công cuộc mở mang
làng Khương Thượng, sau được vua phong tước hiệu Phổ hoá Hoằng tĩnh Chiêu cảm Đại
vương, dân gọi là thần Quy Động (gò Rùa).
Theo truyền thuyết, thủa ban đầu những người khai phá đất
hoang bị ốm đau nhiều, một đêm trên gò Rùa thấy phát hào quang sáng rực, bèn lập
miếu thờ, dân làng được yên ổn thịnh vượng từ đấy.
Đình xây từ lúc nào không ai rõ, tuy muộn nhất cũng phải vào
khoảng nửa đầu thế kỷ 17, khi làng Khương Thượng nhận bức sắc phong thành hoàng
của vua Lê Thần Tông. Văn bia cho biết năm 1772 đình đã được trùng tu to đẹp.
Thời Pháp thuộc, tổng diện tích đình từng là 9.500m2. Đình mới đây lại được
trùng tu và xây thêm đài liệt sĩ, nhưng kiến trúc chung vẫn giữ gần như nguyên
vẹn.
Từ tây sang đông, đình có các hạng mục công trình truyền thống
rất quen thuộc ở vùng đồng bằng sông Hồng như: bình phong, nghi môn, sân đình,
tháp bia, giải vũ, phương đình, đại bái, hậu cung… Sân lát gạch vuông, nhiều
khoảng rộng được tán cây che mát. Đình có diện tích đất rộng tới 6.900m2, đủ
cho hàng nghìn người dự lễ hội.
Hai tháp bia nhỏ nằm gần giữa sân làm tôn lên vẻ đẹp của các
cổ thụ in bóng và toà phương đình khá lớn đứng ở sau. Phương đình như một sân
khấu nhỏ xây chính giữa khuôn viên, hai bên cách ra một không gian thông thoáng
dành cho những khán giả ở phía trước hai dãy nhà tả hữu vu rộng 5 gian.
Trải đều sức nặng vào 16 cây cột là 2 tầng mái phương đình lợp
ngói ta với các đầu đao uốn cong nổi bật trên nền trời xanh và toà đại đình.
Toà đại đình rộng 7 gian 2 chái và sâu tới 31m, những cột to
đều làm bằng gỗ lim, gỗ táu. Các đầu dư cốn nối xà bẩy được chạm khắc rồng, phượng
tứ hình theo các phong cách nghệ thuật thời Lê, Nguyễn.
Ba gian giữa là trung đình, nơi thờ cúng tế tự, có đủ án
thư, cửa võng, hoành phi, câu đối, binh khí thếp vàng và cột sơn son. Những
gian hai bên với các hàng cột mộc là nơi cất giữ đạo cụ phục vụ lễ lạt và hội họp,
ăn uống của các bậc trưởng lão thuộc hai giáp Bắc, Đoài. Hậu cung rộng 3 gian,
bên góc trái cuối sân hậu là lò thiêu hương.
Trong đình Khương Thượng đang lưu giữ 20 sắc phong của các
triều vua, bao gồm 12 sắc phong thời Lê, 2 thời Tây Sơn, 6 thời Nguyễn. Sắc cổ
nhất được phong từ năm 1642 bởi Lê Thần Tông, sắc cuối cùng do Khải Định phong
năm 1924. Trước kia, đình từng có 9 bức hoành phi và 36 đôi câu đối chữ Hán. Hiện
nay chỉ còn lại 4 hoành phi cổ và đã phục hồi được 15 đôi câu đối.
Đôi câu đối ở mặt sau cổng đình nêu cao vị thế của làng và
thành hoàng:
Tự Hồng Lạc dĩ lai ấp vu Khương Quy Động Long Biên sơn hà củng
cố
Trung thiên địa tịnh lập đẳng nhi thượng loan bằng phượng vũ
nhật nguyệt quang hoa
Nghĩa là:
Từ đời Hồng Lạc đến nay mở mang Khương ấp, Quy Động Long
Biên non sông bền vững
Giữa cõi đất trời đều đứng trên bậc Thượng đẳng, loan bay phượng
múa nhật nguyệt sáng tươi.
Hội đình Khương Thượng được tiến hành hằng năm vào ngày 12
tháng 2 âm lịch, tổ chức vui chơi ca hát và tưởng niệm sự kiện xuất hiện hào
quang trên gò Động Rùa xưa kia.
Dân làng hiện nay vẫn giữ được nhiều truyền thống cũ. Lễ
nghi thường bao gồm các tiết mục: lễ khai mạc, lễ dâng hương, lễ viếng liệt sĩ,
lễ tế cáo yết Thành hoàng.
Từng dòng họ hoặc gia đình tiêu biểu được mời tham gia tế lễ
và nêu cao thành tựu của mình. Làng cũng cho lập các gian trưởng lão, quán thư
pháp, văn tải đạo, mời biểu diễn văn nghệ trong đình và hát quan họ trên hồ.
Đình làng Khương Thượng được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng
Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia vào năm 1990.