Cụm di tích đình, chùa Khương Trung (thuộc phường Khương Trung, quận Thanh Xuân, Hà Nội) là một trong những di tích lịch sử văn hóa gắn với vùng đất diễn ra nhiều sự kiện lịch sử của dân tộc.
Đình Khương Trung có từ đầu thế kỷ 17. Thờ: hai tướng của
vua Hùng thứ 18. Xếp hạng: Di tích quốc gia (năm 1993). Địa chỉ: số 245 phố
Khương Trung, phường Khương Trung, quận Thanh Xuân, TP Hà Nội.
Địa lý
Làng Khương Trung xưa gồm 4 xóm (Trên, Hồng, Đầm, Dộc) và
thuộc vùng "Tam Khương" (Khương Thượng, Khương Trung, Khương Hạ). Từ
năm 1915, ba thôn của xã Khương Đình được tách thành ba xã độc lập: xã Khương
Thượng thuộc tổng Yên Hạ, xã Khương Trung thuộc tổng Hoàng Mai cùng nằm trong
huyện Hoàn Long, còn xã Khương Hạ vẫn nằm trong tổng Khương Đình, huyện Thanh
Trì, tỉnh Hà Đông cũ.
Đất làng Khương Trung xưa kia khá rộng: phía Đông giáp đồng
làng Phương Liệt (tức làng Vọng), phía Nam giáp hai làng Khương Hạ và Định
Công, phía Tây giáp sông Tô Lịch, phía Bắc và Tây-Bắc giáp các làng Láng Hạ, Thịnh
Quang, Khương Thượng, Vĩnh Hồ. Năm 1919, thực dân Pháp khi xây sân bay Bạch Mai
đã sung công một số đất đai của Phương Liệt, Khương Thượng và nửa phía đông của
thôn Khương Trung, làm mất hẳn xóm Hồng và xóm Đầm. Ngày nay chỉ còn lại đầm Hồng.
Đình và Chùa Khương Trung. Photo by NCCong ©2015
Lược sử
Đình Khương Trung là một trong những ngôi đình cổ của
làng Gừng thờ hai võ tướng là Trần Minh và Trần Quang, quê Vĩnh Phú. Hai ông
đã cùng vua Hùng thứ 18 đánh giặc bảo vệ đất nước, giúp dân Khương Trung làm
ăn.
Theo truyền thuyết, thời vua Hùng 18 có hai võ tướng là Trần Minh và Trần Quang
quê ở Phú Thọ, lúc ra đời có ánh hào quang phủ khắp người nên được đặt tên là
Quang và Minh. Hai ông theo vua Hùng Duệ chống lại Thục Phán.
Sau này, khi Hùng Duệ vương nhường ngôi cho Thục Phán, hình
thành triều đại An Dương Vương có mời hai ông ra giúp nước. Tuy không thần phục
Thục Phán song thấy nước nhà lâm nguy hai ông lại dẫn binh ra trận và chiến thắng.
Khi chiến thắng trở về đi qua vùng Thanh Đàm, thấy cảnh đẹp
thuận lợi việc làm ăn, hai ông dừng lại đó dựng nhà, cày ruộng, không ra làm
quan cho An Dương Vương.
Về già khi hai ông mất, tự nhiên mối đùn lên thành gò. Tại
đây dân làng xây hai ngôi miếu để thờ làm thành hoàng làng. Cứ đến ngày 5 tháng
Giêng âm lịch, dân làng tổ chức rước hai ông từ miếu về đình.
Ngoài thờ hai đức ông, đình Khương Trung còn thờ mẹ con bà Hậu
Tham, quê ở Nam Đàn, Nghệ An. Bà có tên thật là Trịnh Quý Thị, hiệu là Diệu
Nhũ, thời Lê—Trịnh. Bà quê ở Nam Định, không có con trai nên đã cúng hết ruộng
vào chùa và được thờ hậu ở đình làng.
Theo sử sách, tháng 10 năm 1426, tướng nhà Minh là Viên Lượng
mang quân đến giải vây Đông Quan. Nghĩa quân Lê Lợi phục kích ở Nhân Mục, bắt sống
Viên Lượng và diệt hơn nghìn tên. Tháng sau, giặc đánh ra vùng Bình Đà (Thanh
Oai), nghĩa quân đã nhử giặc về phía Hà Đông, tiêu diệt và bắt sống hàng nghìn
tên.
Sân đình và chùa Khương Trung. Panorama (c) NCCong 2015
Trong chiến thắng Kỉ Dậu (1789), quân Tây Sơn đã phối hợp
cùng dân binh vùng này diệt quân giặc ở vùng Khương Thượng, Đống Đa. Căn cứ
vào hai sắc phong năm Khánh Đức thứ 4 (1652) và năm Quang Trung thứ 3 (1790) ta
có thể suy luận đình và chùa đã được xây dựng từ nửa trước thế kỷ 17.
Trong kháng chiến chống Pháp, sau trận đánh vào sân bay Bạch
Mai năm 1948, giặc Pháp đã phá huỷ đình và chùa Khương Trung; về sau dân làng
đã xây lại. Chùa và đình được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa quốc gia ngày
16-12-1993. Hàng năm làng tổ chức hội đình vào ngày mồng 5 tháng Giêng, có rước
thần, tế lễ bằng cỗ chay vào ban đêm; trong hội có hát chèo, đánh vật, chọi gà.
Bia đình Khương Trung. Photo by NCCong ©2015
Kiến trúc và di vật
Đình Khương Trung xây trên nền đất cao, được thiết kế theo
hình chữ “đinh” (丁), có nghi môn, đại đình và hậu cung. Cũng như đình ở
các nơi khác, nghi môn là kiến trúc không thể thiếu được của đình. Trên đỉnh
hai cột đồng trụ nghi môn có thượng cầm hạ thú, dưới cột hình Long, Ly, Quy,
Phượng.
Tiếp đó, qua sân gạch là đại đình, đại đình có năm
gian, bên ngoài đại đình còn có một quả chuông, một chiếc trống và một tấm bia.
Trên nóc đại đình được đắp hình rồng chầu mặt trời.
Kết cấu nóc của gian giữa kiểu chồng rường, các vì bên làm
kiểu giá chiêng, các bức cốn nách làm kiểu kẻ. Nhìn chung, đình không chạm trổ
nhiều, thỉnh thoảng có điểm xuyết các môtíp đèn, sách, lộc bình, ngũ quả, đào,
trúc… Hậu cung ba gian là nơi thờ chính hai vị thành hoàng làng, có long đình
chạm trổ rất tinh xảo.
Các di vật trong đình còn lưu giữ được: hai sắc phong thời Lê (năm 1652) và
Quang Trung (năm 1791), một thần phả, hai pho tượng thành hoàng, long ngai, bài
vị, một kiệu long đình, hai bia, một bộ bát bửu, hoành phi.
Cùng trong cụm di tích, chùa Khương Trung nằm sát bên trái và thẳng hàng với
đình. Trên Tam quan có bảng đề Khương Trung tự. Xung quanh các bờ mái của chùa
đều có đắp trang trí hình vân triện, hoá rồng. Ngôi chùa chính hình “chuôi vồ”.
Chùa gồm 3 gian 2 chái và 3 gian hậu cung. Kết cấu vì kèo kiểu chồng rường, cốn
làm kiểu kẻ.
Chùa Khương Trung trang trí không nhiều, song để làm tăng hiệu
quả của kiến trúc người xưa đã chọn những hình hoa sen, hoa dây, vân xoắn để
trang trí. Phần cốn mê của hậu cung được chạm hai hình rồng cùng mây cuộn dày đặc
tạo nên tính nghệ thuật độc đáo của chùa.
Trong chùa còn lưu giữ một quả chuông cao 1,1m, rộng 0,4m, hai hoành phi, hai
câu đối, 11 pho tượng, bức cửa võng chạm thủng tinh xảo. Các hiện vật còn lại
trong chùa nhìn chung cũng đầy đủ so với những ngôi chùa khác, song các tượng
được tạo tác khá muộn khoảng thế kỉ XIX.
Trong kháng chiến chống Pháp, sau trận đánh vào sân bay Bạch Mai đêm 17 rạng
sáng ngày 18/1/1950, giặc Pháp đã phá huỷ đình - chùa Khương Trung. Đầu những
năm 90 (thế kỷ XX), đình và chùa Khương Trung được xây dựng lại từ nguồn ngân
sách nhà nước và đóng góp của nhân dân phường Khương Trung.
Đình, chùa Khương Trung nằm sát nhau trong một tổng thể hoàn chỉnh. Trải qua
bao cuộc binh đao, hưng phế, người dân nơi đây ý thức rất rõ về công lao của
các anh hùng có công với đất nước nên không ngừng giữ gìn, tôn tạo, tu bổ công
trình ngày càng khang trang và to đẹp hơn.
Đình và chùa Khương Trung đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng di tích kiến
trúc nghệ thuật ngày 16/12/1993.