Đình La Khê và đền Bia Bà - địa chỉ tâm linh của Hà Đông Đình La Khê và đền Bia Bà - địa chỉ tâm linh của Hà Đông Đình làng La Khê được xây dựng từ đầu thế kỷ 17. Đình và 2 chùa Diên Khánh, Phúc Khê cùng nằm trong một quần thể di tích đã được công nhận Di tích lịch sử văn hóa quốc gia vào năm 1989. Địa chỉ: phường La Khê, quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội. Tổng quan về đình La Khê Bia Bà được đặt ở đền Đức Thánh Bà trong đình La Khê. Người dân ở đây thường quen gọi di tích này với tên gọi đình Bia Bà. Sự linh thiêng của ngôi đình cổ được truyền tụng nhau qua một số câu chuyện trong dân gian. Theo truyền thuyết địa phương, một người phụ nữ đi làm đồng khi ngang qua khu Bia Bà đã nhường lại suất ăn của mình cho bà cụ ăn xin. Về sau, người phụ nữ đó ăn nên làm ra và giàu có. Một câu chuyện khác kể rằng, sau khi bị lạc đơn vị, một anh bộ đội đã gặp một bà cụ trên cánh đồng Vang và được nhận một lời khuyên: “Nếu con đi tiếp thì sẽ gặp cướp. Thế nên, con hãy vào trong nhà mẹ mà ngủ. Sáng mai nhớ phải đi về hướng Đông”. Theo chân cụ, anh bước vào một ngôi nhà gianh giữa cánh đồng nhưng sáng sau tỉnh dậy lại thấy mình ngủ trên cái bệ gạch. Nhớ lời chỉ dẫn từ hôm trước của bà cụ, anh đi theo hướng Đông và gặp lại được đơn vị của mình. Sự huyền bí và linh thiêng của Thánh Bà được lưu truyền trong các truyền thuyết địa phương khiến cho Bia Bà ngày càng nổi tiếng. Theo người dân La Khê, Thánh Bà không làm hại ai bao giờ, nhưng đã nổi giận khi địa phương cho người phá Bia Bà bởi sự phức tạp đem tới từ những du khách đến đây ngày càng đông. Tuy nhiên, ngay buổi ra quân phá di tích tâm linh này, rắn mào ở đâu bò ra rất nhiều khiến đội quân phá bia hoảng sợ không dám ra tay… Trên thực tế, dù những câu chuyện nói trên có thật hay không thì người dân La Khê vẫn luôn tin rằng, Bia Bà rất linh thiêng. Nhiều người ở các địa phương khác cũng hành hương tới đây để chiêm bái ngôi đình cổ và mong muốn những điều ấp ủ sẽ thành hiện thực khi họ cất tiếng khẩn cầu tại đây. Chính điện đình La Khê. Photo NCCong ©2014 Lược sử Tương truyền đình làng La Khê được xây dựng từ đầu thế kỷ 17 và đại trùng tu vào TK 18. Trong đình có thờ Nhị vị thành hoàng là Hắc Diện đại vương và Thiên Tiên Bảo Hoa công chúa, hai vị thần đã giúp dân trừ ác và đào ngòi nối sông Nhuệ với sông Đáy để vùng đất này trở nên trù phú. Con ngòi đó sau được đặt tên chữ là Phúc Khê (suối Phúc) và ngôi chùa bên bờ kia cũng cùng tên, dân quen gọi là chùa Ngòi. Ban thờ Nhị vị thành hoàng đình La Khê. Photo ©NCCong 2014 Trong đình còn thờ Bia Bà (sẽ nói kỹ dưới đây) và Bia Thánh sư là hai di vật lịch sử văn hóa quý giá. Bia Thánh sư ghi công tích 10 người Trung Hoa đời Minh mang các họ Lý, Trang, Trần đã sang dạy dân làng làm nghề dệt the lụa. Đến thời nhà Nguyễn lại sắc phong thêm cho các vị là “Dực Bảo Tôn Thần”. Ban thờ bia Thánh sư đình La Khê. Photo ©NCCong 2014 Bia Bà ghi sự tích một hoàng phi của Mạc Thái Tông (1530-1540). Bà tên thật là Trần Thị Hiền, sinh vào mùa xuân năm 1511 tại làng La Ninh [1] trong một gia đình nhiều đời có người làm quan trong triều Lê sơ. Thân phụ Bà là Đô lực sĩ Thiết sơn bá Trần Chân [2]. Năm 1527 đời Mạc Thái Tổ, Bà mới 16 tuổi đã được chọn làm phi cho thái tử Mạc Đăng Doanh. Năm 1530, thái tử nối ngôi, Bà vào ở Đệ nhị cung. Tấm Bia Bà trong tủ kính. Photo NCCong ©2014 Năm 1532 Bà sinh được hoàng tử (thứ 5 trong triều) nhưng sau đó bị bệnh hậu sản. Năm 1538 Bà về quê nhà nghỉ dưỡng, tuy có các Ngự y chạy chữa tận tình song vẫn không khỏi và qua đời mùa đông năm ấy ở tuổi 28. Vua vô cùng thương tiếc, cho an táng trọng thể tại cánh đồng Đa Bang. Năm 1539 Tả Thị lang Bộ Lễ Nguyễn Tiến Thanh và Hiệu lý Viện Hàn lâm Bùi Hoằng đã đồng soạn văn bia cho lăng mộ Bà. Chính điện đền Bia Bà. Photo NCCong ©2014 Bia Bà trải gần bốn thế kỷ đứng ở ngoài đồng, đến mùa xuân 1913 mới đổ do đất lún. Một người không rõ tên tuổi đã sao chép văn bia, đưa vào cuốn Thần phả của làng. Ít lâu sau bia được dựng như cũ. Đến thập kỷ 1980, bia lại đổ rồi đưa về sân đình. Theo nguyện vọng của nhân dân, Ban quản lý di tích làng La Khê đã hưng công dựng một ngôi đền thờ Bà ở ngay bên phải sân đình và đặt bia vào trong. Phần đầu văn bia viết về tiểu sử của Đệ nhị cung Trần Thị Hiền, có đoạn: “Làng La Ninh, huyện Từ Liêm là quê hương của Bà phi. Ông nội của bà húy là Thiện, được phong là Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, Thái bảo; bà nội họ Nguyễn huý là Trù, được phong là Liệt phu nhân. Thân phụ của bà họ Trần, húy là Chân, do có công lao được phong là Thiết Sơn bá, rồi Dũng Quận công; thân mẫu họ Trần, húy là Tú, được phong là Huy nhân”. ”. Cũng như các vị vua khác, chắc chắn Mạc Thái Tông có đủ “tam cung lục viện”, nhưng với những gì ông thể hiện với bà Trần Thị Hiền cho thấy, Nhà vua đã giành tình cảm lớn và sâu đậm cho người vợ đầu tiên của mình. Nội dung tiếp theo của Bia Bà ca ngợi công đức và thể hiện sự tiếc thương của Nhà vua đối với Đệ nhị Cung phi Trần Thị Hiền với lời lẽ bi ai thống thiết: “Ôi ! Đức tính điềm tĩnh thận trọng thư thái nhàn nhã của bà phi đã giúp bà cần kiệm thu xếp ổn thỏa mọi việc trong nhà cho dù những người được tán thán trong Kinh Thi, Kinh Dịch cũng không hơn thế được. Đáng lẽ Bà phải được hưởng phúc khánh nhiều vô cùng, song không hiểu sao sớm đã quy tiên, thật đáng thương thay. Bà phi có nhiều đức hạnh cao đẹp như vậy, sao chẳng đem khắc vào bia đá để lưu truyền bất hủ ư? Cụm di tích La Khê nhìn từ vệ tinh Kiến trúc Trải qua nhiều thế kỷ đầy chiến tranh và biến động xã hội, ngôi đình La Khê không còn nguyên vẹn. Hình thức thiết trí xưa kia khá đơn giản, thiên về bào trơn đóng bén đấu vuông, không có nhiều hoa văn. Các bức tường, cột hiên được xây bằng gạch Bát Tràng miết mạch to, đầu hồi bít đốc. Đó là kiểu kiến trúc chủ yếu sử dụng gạch và vôi vữa, thường gặp ở thời Nguyễn. Tòa đại bái đình La Khê. Photo NCCong ©2014 Đình La Khê, chùa Diên Khánh và chùa Phúc Khê nằm trong một quần thể di tích lịch sử văn hóa được công nhận Di tích lịch sử văn hóa quốc gia vào năm 1989. Năm 1997 dân làng La Khê khởi công trùng tu tòa đại bái 7 gian, năm 2002 lại tiếp tục sửa sang hai tòa trung cung và hậu cung. Tòa đại bái và trung cung xây theo hình chữ “Nhị”, toà hậu cung có kết cấu hình chữ “Đinh”. Tất cả nội thất đều được trang hoàng rực rỡ. Nguyệt hồ và nghi môn đình La Khê. Photo NCCong ©2014 Khuôn viên của đình La Khê ngày nay rộng khoảng 8000m2, các sân đều lát gạch đỏ. Nếu thay các lều quán bằng vườn cây xanh thì rất đẹp. Ngôi đình nhìn thẳng qua dải sân về một nguyệt hồ ở hướng nam với hàng lan can đá bao quanh và các tượng linh thú soi bóng trên mặt nước. Du khách từ ngoài đường làng bước vào cổng nghi môn rồi đi theo con ngõ rộng ven hồ này qua một phương đình sẽ đến sân dài, bên phải là chùa Diên Khánh, trước mặt là tam quan nội và nhà đại bái của đình. Tam quan nội của đình La Khê. Photo NCCong ©2014 Bên trái là đền Bia Bà. Riêng tiền đường 5 gian được xây kiểu hai tầng tám mái, phía trước cũng để mở rất thoáng như kiến trúc chung của hầu hết khu đình. Trung cung và hậu cung kết nối với tiền đường theo hình chữ “Tam”. Cách một khoảng sân ở cả hai phía bên trái và bên phải đền Bia Bà còn có những công trình khác nhằm phục vụ khách du lịch và tín đồ tới viếng thăm. Khám thờ Đức Thánh Bà La Khê. Photo NCCong ©2014 Hiện vật Hiện tại, đình La Khê lưu giữ được khá nhiều di vật có giá trị nghệ thuật cao như án giang, hương án, kiều, hoành phi, câu đối v.v.. Trong tòa trung cung có hai cỗ long ngai, bài vị của Đức Ông và Đức Bà đại vương thành hoàng được tạo tác công phu, tỉ mỉ. Ngoài hai tấm Bia Bà và Bia Thánh sư, còn có 28 đạo sắc phong của các triều đại phong kiến Việt Nam cũng là những chứng tích lịch sử quý hiếm. Khám thờ Đại vương ở hậu cung đình La Khê. Photo NCCong ©2014 Vốn là địa điểm du lịch văn hóa và lịch sử lâu đời, từ khi cạnh đình có dựng Bia Bà thì nơi đây càng nổi tiếng vì được coi là một đền thờ rất linh thiêng. Hằng ngày có nhiều khách thập phương đến dâng lễ cầu lộc, đặc biệt vào các dịp Tết và Hội làng La Khê, được tổ chức từ ngày 14 đến 16 tháng Giêng âm lịch. Để bảo vệ di vật khỏi sự sờ mó của các tín đồ, hiện nay Bia Bà được che bằng các tấm kính dày. Mặt nam đền Bia Bà với Đài kỷ niệm ở cuối sân. Photo NCCong ©2014 Đài kỷ niệm một sự kiện lịch sử khác với gần 70 năm tuổi là “Bia ghi dấu địa điểm xét xử đầu tiên của Tòa án nhân dân tại Bắc Bộ” đã được khởi công xây dựng ngày 05-8-2013 ngay trong sân nhỏ bên phải đền Bia Bà. Mới đây vào ngày 20-4-2014, chính quyền trung ương và địa phương đã làm lễ khánh thành Đài kỷ niệm này. Vào những ngày đầu năm mới hay mùng Một - ngày Rằm hàng tháng luôn tấp nập người đi lễ. Từ cổng vào có gần chục chiếc lán gắn biển “viết sớ thuê” và có những người phụ nữ già làm nghề khấn thuê. Trong những ngày đầu năm mới, khách thập phương đến đây chiêm bái rất đông. Mâm lễ dâng lên được soạn tùy tâm từng người nhưng chủ yếu là các lễ chay như hương, hoa tươi, bánh, quả chín, trầu cau và một ít tiền lẻ. Họ cầu xin Thánh Bà sức khỏe, bình an, may mắn, cầu tài cầu lộc, thăng quan tiến chức, thi cử đỗ đạt, mua nhà rồi lại bán được nhà, trúng hợp đồng làm ăn… và chủ yếu cầu xin trong việc làm ăn. Ai gieo được một đồng xấp đồng ngửa đều rất phấn khởi. Nhiều người ta tin rằng, những lời nguyện cầu ở đền Bia Bà thật sự linh ứng. Theo người dân La Khê, Thánh Bà khi xưa là người chỉn chu, lo lắng, quản lý mọi việc trong cung để Nhà vua yên tâm chinh chiến khắp nơi. Xuất phát từ đây, trong dân gian đã nảy sinh tín ngưỡng cầu lộc Thánh Bà, mong được thuận lợi trong việc làm ăn buôn bán. Hàng năm, nhiều chủ doanh nghiệp, cửa hàng buôn bán làm ăn phát đạt đã quay lại đình phát tâm công đức báo đáp. Thực - hư về sự linh ứng của lời cầu nguyện tại đình Bia Bà song lời đồn cứ duy trì theo thời gian khiến cho Bia Bà trở nên linh thiêng, được giới làm ăn tìm đến nhiều hơn. Từ khi Bia Bà được đưa về sân đình La Khê, lượng người đến lễ cầu lộc ngày càng đông. Vào các dịp Rằm tháng Bảy, trước Tết Nguyên đán và nhất là sau Tết, mọi người đến lễ và chiêm bái đình Bia Bà rất đông với mong muốn có một năm mới “vạn sự như ý”. Đến với La Khê, du khách không chỉ được chiêm bái những di tích lịch sử - văn hóa của địa phương mà còn có những trải nghiệm thú vị trong cuộc hành hương về quá khứ. Sự thâm nghiêm cổ kính của đình Bia Bà và sự linh ứng của lời nguyện cầu phát tài phát lộc đã thu hút nhiều người đến đây. Năm 1998, đình Bia Bà - La Khê đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật. [1] Xưa kia La Ninh thuộc huyện Từ Liêm, trấn Sơn Tây. Sau tránh tên huý của vua Lê Duy Ninh nên đổi là thôn La Khê. Nay là phường La Khê, quận Hà Đông, TP Hà Nội. [2] Trần Chân từng giúp cha nuôi là Quận công Trịnh Duy Sản cùng đại thần Nguyễn Hoàng Dụ lật đổ “vua lợn” Lê Tương Dực. Năm 1516 hai cha con Trần Chân, Trần Lực bị giết hại do những lời sàm tấu, thi thể an táng gần làng ở Phúc Khê Tự tức chùa Ngòi. Mấy năm sau lại được minh oan, truy phong tước Dũng quận công cho cha và tước bá cho con. Nguồn: Văn Hiến Việt Nam Ths Nguyễn Thy Ngà Đình làng La Khê được xây dựng từ đầu thế kỷ 17. Đình và 2 chùa Diên Khánh, Phúc Khê cùng nằm trong một quần thể di tích đã được công nhận Di tích lịch sử văn hóa quốc gia vào năm 1989. Địa chỉ: phường La Khê, quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội. Tổng quan về đình La Khê Bia Bà được đặt ở đền Đức Thánh Bà trong đình La Khê. Người dân ở đây thường quen gọi di tích này với tên gọi đình Bia Bà. Sự linh thiêng của ngôi đình cổ được truyền tụng nhau qua một số câu chuyện trong dân gian. Theo truyền thuyết địa phương, một người phụ nữ đi làm đồng khi ngang qua khu Bia Bà đã nhường lại suất ăn của mình cho bà cụ ăn xin. Về sau, người phụ nữ đó ăn nên làm ra và giàu có. Một câu chuyện khác kể rằng, sau khi bị lạc đơn vị, một anh bộ đội đã gặp một bà cụ trên cánh đồng Vang và được nhận một lời khuyên: “Nếu con đi tiếp thì sẽ gặp cướp. Thế nên, con hãy vào trong nhà mẹ mà ngủ. Sáng mai nhớ phải đi về hướng Đông”. Theo chân cụ, anh bước vào một ngôi nhà gianh giữa cánh đồng nhưng sáng sau tỉnh dậy lại thấy mình ngủ trên cái bệ gạch. Nhớ lời chỉ dẫn từ hôm trước của bà cụ, anh đi theo hướng Đông và gặp lại được đơn vị của mình. Sự huyền bí và linh thiêng của Thánh Bà được lưu truyền trong các truyền thuyết địa phương khiến cho Bia Bà ngày càng nổi tiếng. Theo người dân La Khê, Thánh Bà không làm hại ai bao giờ, nhưng đã nổi giận khi địa phương cho người phá Bia Bà bởi sự phức tạp đem tới từ những du khách đến đây ngày càng đông. Tuy nhiên, ngay buổi ra quân phá di tích tâm linh này, rắn mào ở đâu bò ra rất nhiều khiến đội quân phá bia hoảng sợ không dám ra tay… Trên thực tế, dù những câu chuyện nói trên có thật hay không thì người dân La Khê vẫn luôn tin rằng, Bia Bà rất linh thiêng. Nhiều người ở các địa phương khác cũng hành hương tới đây để chiêm bái ngôi đình cổ và mong muốn những điều ấp ủ sẽ thành hiện thực khi họ cất tiếng khẩn cầu tại đây. Chính điện đình La Khê. Photo NCCong ©2014Lược sửTương truyền đình làng La Khê được xây dựng từ đầu thế kỷ 17 và đại trùng tu vào TK 18. Trong đình có thờ Nhị vị thành hoàng là Hắc Diện đại vương và Thiên Tiên Bảo Hoa công chúa, hai vị thần đã giúp dân trừ ác và đào ngòi nối sông Nhuệ với sông Đáy để vùng đất này trở nên trù phú. Con ngòi đó sau được đặt tên chữ là Phúc Khê (suối Phúc) và ngôi chùa bên bờ kia cũng cùng tên, dân quen gọi là chùa Ngòi. Ban thờ Nhị vị thành hoàng đình La Khê. Photo ©NCCong 2014Trong đình còn thờ Bia Bà (sẽ nói kỹ dưới đây) và Bia Thánh sư là hai di vật lịch sử văn hóa quý giá. Bia Thánh sư ghi công tích 10 người Trung Hoa đời Minh mang các họ Lý, Trang, Trần đã sang dạy dân làng làm nghề dệt the lụa. Đến thời nhà Nguyễn lại sắc phong thêm cho các vị là “Dực Bảo Tôn Thần”. Ban thờ bia Thánh sư đình La Khê. Photo ©NCCong 2014Bia Bà ghi sự tích một hoàng phi của Mạc Thái Tông (1530-1540). Bà tên thật là Trần Thị Hiền, sinh vào mùa xuân năm 1511 tại làng La Ninh [1] trong một gia đình nhiều đời có người làm quan trong triều Lê sơ. Thân phụ Bà là Đô lực sĩ Thiết sơn bá Trần Chân [2]. Năm 1527 đời Mạc Thái Tổ, Bà mới 16 tuổi đã được chọn làm phi cho thái tử Mạc Đăng Doanh. Năm 1530, thái tử nối ngôi, Bà vào ở Đệ nhị cung. Tấm Bia Bà trong tủ kính. Photo NCCong ©2014 Năm 1532 Bà sinh được hoàng tử (thứ 5 trong triều) nhưng sau đó bị bệnh hậu sản. Năm 1538 Bà về quê nhà nghỉ dưỡng, tuy có các Ngự y chạy chữa tận tình song vẫn không khỏi và qua đời mùa đông năm ấy ở tuổi 28. Vua vô cùng thương tiếc, cho an táng trọng thể tại cánh đồng Đa Bang. Năm 1539 Tả Thị lang Bộ Lễ Nguyễn Tiến Thanh và Hiệu lý Viện Hàn lâm Bùi Hoằng đã đồng soạn văn bia cho lăng mộ Bà. Chính điện đền Bia Bà. Photo NCCong ©2014 Bia Bà trải gần bốn thế kỷ đứng ở ngoài đồng, đến mùa xuân 1913 mới đổ do đất lún. Một người không rõ tên tuổi đã sao chép văn bia, đưa vào cuốn Thần phả của làng. Ít lâu sau bia được dựng như cũ. Đến thập kỷ 1980, bia lại đổ rồi đưa về sân đình. Theo nguyện vọng của nhân dân, Ban quản lý di tích làng La Khê đã hưng công dựng một ngôi đền thờ Bà ở ngay bên phải sân đình và đặt bia vào trong.Phần đầu văn bia viết về tiểu sử của Đệ nhị cung Trần Thị Hiền, có đoạn: “Làng La Ninh, huyện Từ Liêm là quê hương của Bà phi. Ông nội của bà húy là Thiện, được phong là Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, Thái bảo; bà nội họ Nguyễn huý là Trù, được phong là Liệt phu nhân. Thân phụ của bà họ Trần, húy là Chân, do có công lao được phong là Thiết Sơn bá, rồi Dũng Quận công; thân mẫu họ Trần, húy là Tú, được phong là Huy nhân”. ”. Cũng như các vị vua khác, chắc chắn Mạc Thái Tông có đủ “tam cung lục viện”, nhưng với những gì ông thể hiện với bà Trần Thị Hiền cho thấy, Nhà vua đã giành tình cảm lớn và sâu đậm cho người vợ đầu tiên của mình. Nội dung tiếp theo của Bia Bà ca ngợi công đức và thể hiện sự tiếc thương của Nhà vua đối với Đệ nhị Cung phi Trần Thị Hiền với lời lẽ bi ai thống thiết: “Ôi ! Đức tính điềm tĩnh thận trọng thư thái nhàn nhã của bà phi đã giúp bà cần kiệm thu xếp ổn thỏa mọi việc trong nhà cho dù những người được tán thán trong Kinh Thi, Kinh Dịch cũng không hơn thế được. Đáng lẽ Bà phải được hưởng phúc khánh nhiều vô cùng, song không hiểu sao sớm đã quy tiên, thật đáng thương thay. Bà phi có nhiều đức hạnh cao đẹp như vậy, sao chẳng đem khắc vào bia đá để lưu truyền bất hủ ư? Cụm di tích La Khê nhìn từ vệ tinhKiến trúcTrải qua nhiều thế kỷ đầy chiến tranh và biến động xã hội, ngôi đình La Khê không còn nguyên vẹn. Hình thức thiết trí xưa kia khá đơn giản, thiên về bào trơn đóng bén đấu vuông, không có nhiều hoa văn. Các bức tường, cột hiên được xây bằng gạch Bát Tràng miết mạch to, đầu hồi bít đốc. Đó là kiểu kiến trúc chủ yếu sử dụng gạch và vôi vữa, thường gặp ở thời Nguyễn. Tòa đại bái đình La Khê. Photo NCCong ©2014Đình La Khê, chùa Diên Khánh và chùa Phúc Khê nằm trong một quần thể di tích lịch sử văn hóa được công nhận Di tích lịch sử văn hóa quốc gia vào năm 1989. Năm 1997 dân làng La Khê khởi công trùng tu tòa đại bái 7 gian, năm 2002 lại tiếp tục sửa sang hai tòa trung cung và hậu cung. Tòa đại bái và trung cung xây theo hình chữ “Nhị”, toà hậu cung có kết cấu hình chữ “Đinh”. Tất cả nội thất đều được trang hoàng rực rỡ. Nguyệt hồ và nghi môn đình La Khê. Photo NCCong ©2014 Khuôn viên của đình La Khê ngày nay rộng khoảng 8000m2, các sân đều lát gạch đỏ. Nếu thay các lều quán bằng vườn cây xanh thì rất đẹp. Ngôi đình nhìn thẳng qua dải sân về một nguyệt hồ ở hướng nam với hàng lan can đá bao quanh và các tượng linh thú soi bóng trên mặt nước. Du khách từ ngoài đường làng bước vào cổng nghi môn rồi đi theo con ngõ rộng ven hồ này qua một phương đình sẽ đến sân dài, bên phải là chùa Diên Khánh, trước mặt là tam quan nội và nhà đại bái của đình. Tam quan nội của đình La Khê. Photo NCCong ©2014Bên trái là đền Bia Bà. Riêng tiền đường 5 gian được xây kiểu hai tầng tám mái, phía trước cũng để mở rất thoáng như kiến trúc chung của hầu hết khu đình. Trung cung và hậu cung kết nối với tiền đường theo hình chữ “Tam”. Cách một khoảng sân ở cả hai phía bên trái và bên phải đền Bia Bà còn có những công trình khác nhằm phục vụ khách du lịch và tín đồ tới viếng thăm. Khám thờ Đức Thánh Bà La Khê. Photo NCCong ©2014Hiện vậtHiện tại, đình La Khê lưu giữ được khá nhiều di vật có giá trị nghệ thuật cao như án giang, hương án, kiều, hoành phi, câu đối v.v.. Trong tòa trung cung có hai cỗ long ngai, bài vị của Đức Ông và Đức Bà đại vương thành hoàng được tạo tác công phu, tỉ mỉ. Ngoài hai tấm Bia Bà và Bia Thánh sư, còn có 28 đạo sắc phong của các triều đại phong kiến Việt Nam cũng là những chứng tích lịch sử quý hiếm. Khám thờ Đại vương ở hậu cung đình La Khê. Photo NCCong ©2014Vốn là địa điểm du lịch văn hóa và lịch sử lâu đời, từ khi cạnh đình có dựng Bia Bà thì nơi đây càng nổi tiếng vì được coi là một đền thờ rất linh thiêng. Hằng ngày có nhiều khách thập phương đến dâng lễ cầu lộc, đặc biệt vào các dịp Tết và Hội làng La Khê, được tổ chức từ ngày 14 đến 16 tháng Giêng âm lịch. Để bảo vệ di vật khỏi sự sờ mó của các tín đồ, hiện nay Bia Bà được che bằng các tấm kính dày. Mặt nam đền Bia Bà với Đài kỷ niệm ở cuối sân. Photo NCCong ©2014Đài kỷ niệm một sự kiện lịch sử khác với gần 70 năm tuổi là “Bia ghi dấu địa điểm xét xử đầu tiên của Tòa án nhân dân tại Bắc Bộ” đã được khởi công xây dựng ngày 05-8-2013 ngay trong sân nhỏ bên phải đền Bia Bà. Mới đây vào ngày 20-4-2014, chính quyền trung ương và địa phương đã làm lễ khánh thành Đài kỷ niệm này.Vào những ngày đầu năm mới hay mùng Một - ngày Rằm hàng tháng luôn tấp nập người đi lễ. Từ cổng vào có gần chục chiếc lán gắn biển “viết sớ thuê” và có những người phụ nữ già làm nghề khấn thuê. Trong những ngày đầu năm mới, khách thập phương đến đây chiêm bái rất đông. Mâm lễ dâng lên được soạn tùy tâm từng người nhưng chủ yếu là các lễ chay như hương, hoa tươi, bánh, quả chín, trầu cau và một ít tiền lẻ. Họ cầu xin Thánh Bà sức khỏe, bình an, may mắn, cầu tài cầu lộc, thăng quan tiến chức, thi cử đỗ đạt, mua nhà rồi lại bán được nhà, trúng hợp đồng làm ăn… và chủ yếu cầu xin trong việc làm ăn. Ai gieo được một đồng xấp đồng ngửa đều rất phấn khởi. Nhiều người ta tin rằng, những lời nguyện cầu ở đền Bia Bà thật sự linh ứng. Theo người dân La Khê, Thánh Bà khi xưa là người chỉn chu, lo lắng, quản lý mọi việc trong cung để Nhà vua yên tâm chinh chiến khắp nơi. Xuất phát từ đây, trong dân gian đã nảy sinh tín ngưỡng cầu lộc Thánh Bà, mong được thuận lợi trong việc làm ăn buôn bán. Hàng năm, nhiều chủ doanh nghiệp, cửa hàng buôn bán làm ăn phát đạt đã quay lại đình phát tâm công đức báo đáp. Thực - hư về sự linh ứng của lời cầu nguyện tại đình Bia Bà song lời đồn cứ duy trì theo thời gian khiến cho Bia Bà trở nên linh thiêng, được giới làm ăn tìm đến nhiều hơn. Từ khi Bia Bà được đưa về sân đình La Khê, lượng người đến lễ cầu lộc ngày càng đông. Vào các dịp Rằm tháng Bảy, trước Tết Nguyên đán và nhất là sau Tết, mọi người đến lễ và chiêm bái đình Bia Bà rất đông với mong muốn có một năm mới “vạn sự như ý”. Đến với La Khê, du khách không chỉ được chiêm bái những di tích lịch sử - văn hóa của địa phương mà còn có những trải nghiệm thú vị trong cuộc hành hương về quá khứ. Sự thâm nghiêm cổ kính của đình Bia Bà và sự linh ứng của lời nguyện cầu phát tài phát lộc đã thu hút nhiều người đến đây. Năm 1998, đình Bia Bà - La Khê đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng Di tích kiến trúc nghệ thuật.[1] Xưa kia La Ninh thuộc huyện Từ Liêm, trấn Sơn Tây. Sau tránh tên huý của vua Lê Duy Ninh nên đổi là thôn La Khê. Nay là phường La Khê, quận Hà Đông, TP Hà Nội.[2] Trần Chân từng giúp cha nuôi là Quận công Trịnh Duy Sản cùng đại thần Nguyễn Hoàng Dụ lật đổ “vua lợn” Lê Tương Dực. Năm 1516 hai cha con Trần Chân, Trần Lực bị giết hại do những lời sàm tấu, thi thể an táng gần làng ở Phúc Khê Tự tức chùa Ngòi. Mấy năm sau lại được minh oan, truy phong tước Dũng quận công cho cha và tước bá cho con. Nguồn: Văn Hiến Việt NamThs Nguyễn Thy Ngà Trở về đầu trang Đình La Khê Bia Bà Hà Đông Hà Nội 6.857143 Tổng số:7 lượt 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10