Đình làng Đình Bảng, nơi thờ phụng các vị nhân thần thời Hùng Vương Đình làng Đình Bảng, nơi thờ phụng các vị nhân thần thời Hùng Vương Đình Bảng, tên Nôm là đình Báng là một ngôi đình nằm ở làng Đình Bảng (xưa là làng Cổ Pháp hay tên Nôm là làng Báng), thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, được xây dựng vào đầu thế kỷ 18, thờ các vị thành hoàng gồm Cao Sơn đại vương (thần Núi), Thủy Bá đại vương (thần Nước) và Bách Lệ đại vương (thần Đất) đồng thời thờ sáu vị có công lập làng thế kỷ 15. Đình Bảng là một trong những ngôi đình có kiến trúc đẹp nhất còn tồn tại đến ngày hôm nay. Người xưa đã có câu: Thứ nhất là đình Đông Khang, Thứ nhì đình Bảng, thứ ba đình Diềm. Đình Đông Khang đã bị tàn phá, đình Diềm trước có năm gian hai chái nay chỉ còn ba gian hai chái. Chỉ còn đình Bảng là tương đối nguyên vẹn. Đình làng Đình Bảng được xây dựng năm 1700 thời Hậu Lê kéo dài ba mươi sáu năm đến năm 1736 mới hoàn thành. Người hưng công là quan Nguyễn Thạc Lương, người Đình Bảng (từng làm trấn thủ Thanh Hóa) và vợ là Nguyễn Thị Nguyên, quê ở Thanh Hóa. Ông bà đã mua gỗ lim, một loại gỗ quý và bền đem về cúng để dựng ngôi đình. Kiến trúc đặc sắc của đình Bảng Đình Bảng gồm tòa đại đình đồ sộ nối với hậu cung phía sau theo dạng mặt bằng hình chuôi vồ, còn gọi theo dạng chữ Nho là kiểu "chữ đinh" 丁. Toà đại đình dài 20 m, rộng 14 m, cao 8 m, phần mái rủ xuống đẹp đẽ chiếm tới 5,5 m tổng chiều cao. Vẻ độc đáo của ngôi đình thể hiện ở không gian mái đình tỏa rộng, nét đồ sộ của những đầu đao, quy thức thích nghi với khí hậu gió mùa, và trang trí điêu khắc dày đặc. Đình Bảng có kết cấu hệ kèo chồng rường, gồm bảy gian hai chái (gian phụ). Đình được dựng trên nền cao có thềm bó bằng đá xanh. Đặc biệt, đình mang kiến trúc nhà sàn với sàn gỗ bề thế cao 0,7 m so với mặt nền, sáu hàng cột ngang và mười hàng cột dọc bằng gỗ lim có đường kính từ 0,55m (với cột con) đến 0,65m (với cột mẹ) được kê trên các tảng đá xanh. Nóc đình cao tới 8 mét với tỷ lệ mặt đứng của phần mái lớn hơn phần thân (mái chiếm hai phần ba chiều cao của đình) tạo nên cảm giác bề thế. Đình lợp ngói mũi hài và có các đầu đao vươn xa nhất trong các công trình kiến trúc gỗ cổ truyền tại Việt Nam. Đình có cửa bức bàn bao quanh. Nội thất đình được trang trí với rất nhiều chủ đề phong phú như rồng, phượng, tùng, mai, trúc, bầu rượu, thanh gươm. Đặc biệt, hình tượng rồng chiếm một tỷ lệ lớn với số lượng khoảng 500 hình. Gian chính điện (gian giữa) có sàn thấp, lát gạch lá nem. Gian này thấp nhất, thuật ngữ là "lòng thuyền". Sàn ván các gian hai bên cao dần, tổng cộng là hai cấp, phân biệt địa vị của các hương chức khi họp việc làng để người ngồi "chiếu trên", kẻ ngồi "chiếu dưới" tùy theo vai vế trong làng. Bức cửa võng và tấm trần che của gian chính điện được chạm trổ công phu. Trên ván nong, phía dưới bao lơn của hàng cột cái và cột con có một bức chạm hình "Bát mã quần phi" (Bầy ngựa tám con đang phi) với các đáng điệu rất sống động. Trong đình có nhiều bức hoành phi, câu đối được sơn son thếp vàng. Đình Báng có kiến trúc bề thế, hòa hợp với thiên nhiên Việt Nam Cũng như nhiều đình làng Việt Nam dựng vào cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18, đình Báng có kiến trúc bề thế, hòa hợp với thiên nhiên Việt Nam. Đình có mái dài, cao, các đầu đao uốn cong vút, lợp ngói mũi hài dày bản, rộng khổ. Góc mái tức "tàu đao" làm cong uốn ngược. Tòa đại đình được xây trên nền cao ba bậc đá xanh bao quanh Tòa đại đình được xây trên nền cao ba bậc đá xanh bao quanh. Bốn mặt bưng kín bằng ván có thể tháo mở. Đại đình gồm 6 hàng chân cột với 60 cột cái bằng gỗ lim đường kính từ 0,55 đến 0,65 m đặt trên đá xanh, giúp công trình thêm vững chắc. Trên 28 chiếc kẻ hiên là 28 đầu rồng, mỗi đầu mang một vẻ sinh động. Có con rồng nhỏ nhắn, hai chân nắm râu mép, hình dáng ngộ nghĩnh, tươi cười; có con mang nét oai phong, hùng dũng; con lại vô cùng hiền từ...Trước cửa bước vào hai con nghê trong tư thế chầu nhau, căng đầy sức sống và vẻ mặt sinh động. Ở chính điện là một bức cửa võng lớn, chia thành bảy lớp, chín ô theo kiểu lồng hộp, trang trí dày đặc với các chữ triện, các con vật như rồng, phượng, ngựa, sư tử, mây, các cây trong bộ tứ quý...Đình mang kiến trúc nhà sàn với sàn gỗ cao 0,7 m so với mặt nền gồm 6 hàng cột ngang và 10 hàng cột dọc. Không gian bên trong Đại đình hình chữ nhật, dài 20 m, rộng 14 m. Đình có kết cấu hệ kèo chồng rường, gồm bảy gian hai chái (gian phụ). Nóc đình cao tới 8 m với tỷ lệ mặt đứng của phần mái lớn hơn phần thân (mái chiếm hai phần ba chiều cao của đình) tạo nên cảm giác bề thế. Gian chính điện có sàn thấp, gọi là “lòng thuyền”. Sàn ván các gian hai bên cao dần, tổng cộng là hai cấp, phân biệt địa vị của các hương chức khi họp việc làng để người ngồi “chiếu trên”, kẻ ngồi “chiếu dưới” tùy theo vai vế trong làng. Bức cửa võng và tấm trần che của gian chính điện được chạm trổ công phu. Đình thờ các vị thành hoàng gồm Cao Sơn đại vương (thần Núi), Thủy Bá đại vương (thần Nước) và Bách Lệ đại vương (thần Đất) đồng thời thờ sáu vị có công lập lại làng vào thế kỷ 15. Tất cả hệ kèo, cột đều được chạm khắc, các chi tiết không giống nhau Tất cả hệ kèo, cột đều được chạm khắc, các chi tiết không giống nhau. Nghệ thuật điêu khắc thể hiện xu hướng của thời điểm cuối thế kỷ 17, đầu 18 là nghệ thuật cung đình lấn át nghệ thuật dân gian. Trên các cấu kiện đều chạm khắc hình chữ triện, rồng với nhiều chủ đề như lưỡng long vờn mây Trên các cấu kiện đều chạm khắc hình chữ triện, rồng với nhiều chủ đề như lưỡng long vờn mây, lưỡng long chầu nhật, ngũ long tranh châu, lục long ngự thiên, kèm theo đó là hình con phượng, nghê và hoa lá... Hình rồng chiếm số lượng lớn với khoảng 500 hình Hình rồng chiếm số lượng lớn với khoảng 500 hình. Con rồng mang nhiều lớp nghĩa, như biểu hiện cho mây, mưa và ước vọng mùa màng thuận lợi của người nông dân. Rồng cũng biểu hiện cho uy quyền của bậc đế vương, đặt ở đình càng tăng thêm vị thế của Thành hoàng làng. Đình Đình Bảng có tất cả 28 kiểu chạm khắc bộ long Theo các cụ cao niên trong làng, đình Đình Bảng có tất cả 28 kiểu chạm khắc bộ long và hàng chục kiểu chạm khắc bộ ly, quy, phượng, không một bộ nào giống nhau về hình thể cũng như kích cỡ. Những đường nét được chạm khắc tinh xảo đến từng chi tiết nhỏ. Những đường nét được chạm khắc tinh xảo đến từng chi tiết nhỏ. Nét tinh tế trong nghệ thuật điêu khắc ở đình Đình Bảng khiến bất cứ ai đến đây cũng phải khâm phục bàn tay tài hoa của cha ông. Hoa văn trang trí trên các cấu kiện kiến trúc khác rất đa dạng, chạm trổ tinh vi, chau chuốt, hài hoà. Kết cấu bộ khung đình khá vững chắc, gắn với nhau bằng các loại mộng theo lối chồng giường "Thượng tam, hạ tứ". Mỗi bức chạm khắc ở đình là một tác phẩm nổi tiếng độc nhất vô nhị. Càng chiêm ngưỡng, càng thêm bị cuốn hút: Bức "Bát mã quần phi" thể hiện sự sống động, thấy được sự phóng khoáng và nét thanh bình của mảnh đất này qua hình ảnh và tư thế của từng chú ngựa. Bức Lưỡng nghê phục chầu, con đực, con cái, mỗi con một vẻ. Những bức chạm rồng tuyệt xảo: Long vân đại hội, Ngũ long tranh châu, Lục long ngự thiên...từng bức, từng bức gợi tả bao điều. Suốt hơn 200 năm kể từ khi khởi dựng, cho đến nay đình Đình Bảng đã đi vào đời sống tình cảm và là niềm tự hào của người xứ Bắc cũng như nhân dân cả nước: Nguồn: Du lịch 24 Ths Nguyễn Thy Ngà Đình Bảng, tên Nôm là đình Báng là một ngôi đình nằm ở làng Đình Bảng (xưa là làng Cổ Pháp hay tên Nôm là làng Báng), thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, được xây dựng vào đầu thế kỷ 18, thờ các vị thành hoàng gồm Cao Sơn đại vương (thần Núi), Thủy Bá đại vương (thần Nước) và Bách Lệ đại vương (thần Đất) đồng thời thờ sáu vị có công lập làng thế kỷ 15. Đình Bảng là một trong những ngôi đình có kiến trúc đẹp nhất còn tồn tại đến ngày hôm nay. Người xưa đã có câu: Thứ nhất là đình Đông Khang, Thứ nhì đình Bảng, thứ ba đình Diềm. Đình Đông Khang đã bị tàn phá, đình Diềm trước có năm gian hai chái nay chỉ còn ba gian hai chái. Chỉ còn đình Bảng là tương đối nguyên vẹn. Đình làng Đình Bảng được xây dựng năm 1700 thời Hậu Lê kéo dài ba mươi sáu năm đến năm 1736 mới hoàn thành. Người hưng công là quan Nguyễn Thạc Lương, người Đình Bảng (từng làm trấn thủ Thanh Hóa) và vợ là Nguyễn Thị Nguyên, quê ở Thanh Hóa. Ông bà đã mua gỗ lim, một loại gỗ quý và bền đem về cúng để dựng ngôi đình. Kiến trúc đặc sắc của đình Bảng Đình Bảng gồm tòa đại đình đồ sộ nối với hậu cung phía sau theo dạng mặt bằng hình chuôi vồ, còn gọi theo dạng chữ Nho là kiểu "chữ đinh" 丁. Toà đại đình dài 20 m, rộng 14 m, cao 8 m, phần mái rủ xuống đẹp đẽ chiếm tới 5,5 m tổng chiều cao. Vẻ độc đáo của ngôi đình thể hiện ở không gian mái đình tỏa rộng, nét đồ sộ của những đầu đao, quy thức thích nghi với khí hậu gió mùa, và trang trí điêu khắc dày đặc. Đình Bảng có kết cấu hệ kèo chồng rường, gồm bảy gian hai chái (gian phụ). Đình được dựng trên nền cao có thềm bó bằng đá xanh. Đặc biệt, đình mang kiến trúc nhà sàn với sàn gỗ bề thế cao 0,7 m so với mặt nền, sáu hàng cột ngang và mười hàng cột dọc bằng gỗ lim có đường kính từ 0,55m (với cột con) đến 0,65m (với cột mẹ) được kê trên các tảng đá xanh. Nóc đình cao tới 8 mét với tỷ lệ mặt đứng của phần mái lớn hơn phần thân (mái chiếm hai phần ba chiều cao của đình) tạo nên cảm giác bề thế. Đình lợp ngói mũi hài và có các đầu đao vươn xa nhất trong các công trình kiến trúc gỗ cổ truyền tại Việt Nam. Đình có cửa bức bàn bao quanh. Nội thất đình được trang trí với rất nhiều chủ đề phong phú như rồng, phượng, tùng, mai, trúc, bầu rượu, thanh gươm. Đặc biệt, hình tượng rồng chiếm một tỷ lệ lớn với số lượng khoảng 500 hình. Gian chính điện (gian giữa) có sàn thấp, lát gạch lá nem. Gian này thấp nhất, thuật ngữ là "lòng thuyền". Sàn ván các gian hai bên cao dần, tổng cộng là hai cấp, phân biệt địa vị của các hương chức khi họp việc làng để người ngồi "chiếu trên", kẻ ngồi "chiếu dưới" tùy theo vai vế trong làng. Bức cửa võng và tấm trần che của gian chính điện được chạm trổ công phu. Trên ván nong, phía dưới bao lơn của hàng cột cái và cột con có một bức chạm hình "Bát mã quần phi" (Bầy ngựa tám con đang phi) với các đáng điệu rất sống động. Trong đình có nhiều bức hoành phi, câu đối được sơn son thếp vàng. Đình Báng có kiến trúc bề thế, hòa hợp với thiên nhiên Việt Nam Cũng như nhiều đình làng Việt Nam dựng vào cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18, đình Báng có kiến trúc bề thế, hòa hợp với thiên nhiên Việt Nam. Đình có mái dài, cao, các đầu đao uốn cong vút, lợp ngói mũi hài dày bản, rộng khổ. Góc mái tức "tàu đao" làm cong uốn ngược. Tòa đại đình được xây trên nền cao ba bậc đá xanh bao quanh Tòa đại đình được xây trên nền cao ba bậc đá xanh bao quanh. Bốn mặt bưng kín bằng ván có thể tháo mở. Đại đình gồm 6 hàng chân cột với 60 cột cái bằng gỗ lim đường kính từ 0,55 đến 0,65 m đặt trên đá xanh, giúp công trình thêm vững chắc. Trên 28 chiếc kẻ hiên là 28 đầu rồng, mỗi đầu mang một vẻ sinh động. Có con rồng nhỏ nhắn, hai chân nắm râu mép, hình dáng ngộ nghĩnh, tươi cười; có con mang nét oai phong, hùng dũng; con lại vô cùng hiền từ...Trước cửa bước vào hai con nghê trong tư thế chầu nhau, căng đầy sức sống và vẻ mặt sinh động. Ở chính điện là một bức cửa võng lớn, chia thành bảy lớp, chín ô theo kiểu lồng hộp, trang trí dày đặc với các chữ triện, các con vật như rồng, phượng, ngựa, sư tử, mây, các cây trong bộ tứ quý...Đình mang kiến trúc nhà sàn với sàn gỗ cao 0,7 m so với mặt nền gồm 6 hàng cột ngang và 10 hàng cột dọc. Không gian bên trong Đại đình hình chữ nhật, dài 20 m, rộng 14 m. Đình có kết cấu hệ kèo chồng rường, gồm bảy gian hai chái (gian phụ). Nóc đình cao tới 8 m với tỷ lệ mặt đứng của phần mái lớn hơn phần thân (mái chiếm hai phần ba chiều cao của đình) tạo nên cảm giác bề thế. Gian chính điện có sàn thấp, gọi là “lòng thuyền”. Sàn ván các gian hai bên cao dần, tổng cộng là hai cấp, phân biệt địa vị của các hương chức khi họp việc làng để người ngồi “chiếu trên”, kẻ ngồi “chiếu dưới” tùy theo vai vế trong làng. Bức cửa võng và tấm trần che của gian chính điện được chạm trổ công phu. Đình thờ các vị thành hoàng gồm Cao Sơn đại vương (thần Núi), Thủy Bá đại vương (thần Nước) và Bách Lệ đại vương (thần Đất) đồng thời thờ sáu vị có công lập lại làng vào thế kỷ 15. Tất cả hệ kèo, cột đều được chạm khắc, các chi tiết không giống nhau Tất cả hệ kèo, cột đều được chạm khắc, các chi tiết không giống nhau. Nghệ thuật điêu khắc thể hiện xu hướng của thời điểm cuối thế kỷ 17, đầu 18 là nghệ thuật cung đình lấn át nghệ thuật dân gian. Trên các cấu kiện đều chạm khắc hình chữ triện, rồng với nhiều chủ đề như lưỡng long vờn mây Trên các cấu kiện đều chạm khắc hình chữ triện, rồng với nhiều chủ đề như lưỡng long vờn mây, lưỡng long chầu nhật, ngũ long tranh châu, lục long ngự thiên, kèm theo đó là hình con phượng, nghê và hoa lá... Hình rồng chiếm số lượng lớn với khoảng 500 hình Hình rồng chiếm số lượng lớn với khoảng 500 hình. Con rồng mang nhiều lớp nghĩa, như biểu hiện cho mây, mưa và ước vọng mùa màng thuận lợi của người nông dân. Rồng cũng biểu hiện cho uy quyền của bậc đế vương, đặt ở đình càng tăng thêm vị thế của Thành hoàng làng. Đình Đình Bảng có tất cả 28 kiểu chạm khắc bộ long Theo các cụ cao niên trong làng, đình Đình Bảng có tất cả 28 kiểu chạm khắc bộ long và hàng chục kiểu chạm khắc bộ ly, quy, phượng, không một bộ nào giống nhau về hình thể cũng như kích cỡ. Những đường nét được chạm khắc tinh xảo đến từng chi tiết nhỏ. Những đường nét được chạm khắc tinh xảo đến từng chi tiết nhỏ. Nét tinh tế trong nghệ thuật điêu khắc ở đình Đình Bảng khiến bất cứ ai đến đây cũng phải khâm phục bàn tay tài hoa của cha ông. Hoa văn trang trí trên các cấu kiện kiến trúc khác rất đa dạng, chạm trổ tinh vi, chau chuốt, hài hoà. Kết cấu bộ khung đình khá vững chắc, gắn với nhau bằng các loại mộng theo lối chồng giường "Thượng tam, hạ tứ". Mỗi bức chạm khắc ở đình là một tác phẩm nổi tiếng độc nhất vô nhị. Càng chiêm ngưỡng, càng thêm bị cuốn hút: Bức "Bát mã quần phi" thể hiện sự sống động, thấy được sự phóng khoáng và nét thanh bình của mảnh đất này qua hình ảnh và tư thế của từng chú ngựa. Bức Lưỡng nghê phục chầu, con đực, con cái, mỗi con một vẻ. Những bức chạm rồng tuyệt xảo: Long vân đại hội, Ngũ long tranh châu, Lục long ngự thiên...từng bức, từng bức gợi tả bao điều. Suốt hơn 200 năm kể từ khi khởi dựng, cho đến nay đình Đình Bảng đã đi vào đời sống tình cảm và là niềm tự hào của người xứ Bắc cũng như nhân dân cả nước:Nguồn: Du lịch 24Ths Nguyễn Thy Ngà Trở về đầu trang Đình làng Đình Bảng Bắc Ninh danh thần Hùng Vương 6.5 Tổng số:4 lượt 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10