Đình Thôn Lực Canh, xã Xuân Canh, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. thờ phụng Thần hoàng làng là một vị thủy thần, có tên húy là Cổ Quốc, nhiều lần hiển ứng phù giúp các triều vua nước Việt dẹp giặc giữ yên thái bình cho đất nước.
Làng Lực Canh tên Nôm làng làng Dâu, đầu thế kỷ XIX là một
xã thuộc tổng Xuân Canh, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (năm Minh Mạng
thứ 12 - 1831 đổi thành tỉnh Bắc Ninh). Năm Tự Đức thứ 29 (1876), Lực Canh cùng
ba xã (Xuân Canh, Mạch Tràng và Xuân Trạch) vẫn nằm trong tổng Xuân Canh (7 xã
còn lại của tổng này được lập thành tổng Uy Nỗ).
Các tổng này đều thuộc huyện Đông Anh mới được thành lập,
trên cơ sở điều chỉnh các xã, tổng của huyện Đông Ngàn và huyện Yên Lãng (phủ
Tam Đái, trấn Sơn Tây). Từ năm 1901 huyện Đông Anh được chuyển từ tỉnh Bắc Ninh
về tỉnh Phù Lỗ (năm 1904 đổi làm tỉnh Phúc Yên).
Cách mạng Tháng Tám
1945 thành công, Lực Canh là một xã độc lập. Trong kháng chiến chống Pháp, làng
nhập với các làng : Xuân Canh, Xuân Trạch, Vạn Lộc thành xã Vạn Thắng thuộc huyện
Đông Anh, tỉnh Phúc Yên (năm 1950 là tỉnh Vĩnh Phúc). Tháng 5 - 1961, xã Vạn Thắng
cùng các xã khác của huyện Đông Anh được cắt chuyển từ tỉnh Vĩnh Phúc về thành
phố Hà Nội. Năm 1965, xã Vạn Thắng đổi tên thành Xuân Canh.
Lực Canh cùng Xuân Canh nằm ở ngã ba sông Đuống và sông Hồng.
Sông Đuống hay sông Thiên Đức nối với sông Hồng từ đây, chảy các xã Hoa Lâm
(nay là Mai Lâm, huyện Đông Anh), Yên Thường về Cổ Bi (cùng thuộc huyện Gia
Lâm) và chảy tiếp về phía Đông Nam.
Lực Canh có bãi bờ màu mỡ, thuận tiện cho việc làm nông nghiệp,
nên dân làng thạo việc trồng dâu, nuôi tằm, trồng màu trên đất bãi (tên Nôm của
làng là “làng Dâu” và tên chữ là “Lực Canh” ý chỉ điều đó).
Qua cuốn Thần tích, Thần sắc hiện đang lưu trữ tại Viện
Thông tin Khoa học xã hội Việt Nam, ghi lại cổ truyền dân gian, vào đời Vua
Hùng thứ 18, Tản Viên Sơn thánh theo lệnh vua đi dẹp quân Thục đã ghé qua làng
Lực Canh, được vị thủy thần tên là Cổ Quốc hiện lên âm phù cho Sơn Thánh phá
tan giặc. Khi trở về, Sơn Thánh lập đền và cho dân làng Lực Canh thờ vị thủy thần
làm thành hoàng.
Vì thần tên là Cổ Quốc nên dân làng phải gọi chệch “cổ”
thành “của”, “quốc’ thành “quắc”.
Đời Vua Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành cũng được Ngài hiển
linh giúp nước, đã xuống chiếu sắc phong thần cho Ngài là Thủy Thần, bậc Trung
đẳng thần húy là Cổ Quốc.
Trước đây, làng còn đến 36 đạo sắc phong cho thần, đạo sớm
nhất vào năm Vĩnh Tộ thứ tám (năm 1626). Các lễ thức thờ thần chính vào các
ngày : mồng 8 tháng Ba (thần hiện lên âm phù Sơn Thánh) và 10 tháng Tám (đại kỳ
phúc).
Trải qua thăng trầm của thời gian, ngôi Đình cổ không còn. Với
truyền thống đạo lý uống nước nhớ nguồn, nhân dân thôn Lực Canh đã xây dựng lại
ngôi Đình trên nền đất cũ.
Lực Canh là một làng cổ. Trước Cách mạng Tháng Tám 1945, Lực
Canh là làng có dân số tương đối đông (1815 người). Trai đinh trong làng sinh
hoạt trong 5 giáp. Làng còn 28 mẫu ruộng công và 44 mẫu ruộng hậu để đấu giá
dùng vào các việc hành chính, tế tự.
Đến thời Nguyễn, làng Lực Canh có hai người đỗ Hương cống (Cử
nhân) là Hoàng Dũ Quang (Hương cống khoa Tân Tỵ đời Vua Minh Mạng - 1821) và
Nguyễn Đăng Thông (Cử nhân khoa Nhâm Tý đời Tự Đức - 1852). Ông Thông được bổ
chức Giáo thụ nhưng mang nặng chữ “hiếu”, ông không ra làm quan mà ở lại quê
nhà để phụng dưỡng cha mẹ già. Còn Hoàng Dũ Quang lúc đầu được bổ làm Tri huyện,
sau làm quan đến chức Thự Hộ khoa Cấp sự trung (như chánh thanh tra Bộ Tài
chính hiện nay).
Ông nổi tiếng là người thẳng thắn, liêm khiết. Vào tháng Chạp
năm ất Mùi, đời Vua Minh Mạng (1835), Hoàng Dũ Quang đã làm bản điều trần lên
Vua vạch rõ các điều tệ hại của các lại dịch trong các công sở ở các phủ huyện
(thường là người cùng làng) thuộc các tỉnh Bắc Kỳ thông đồng với nhau để vơ vét
của công; các tri sự tức viên chức giúp việc tri phủ và lại mục - viên chức
giúp việc cho tri huyện bè đảng, cùng các lại dịch dùng lọng đen, xe kiệu tiếm
lễ (tức vượt quá quy định) so với cả các quan phủ huyện; những khi có việc bắt
lính, thu thuế thường sách nhiễu đủ thứ, chia nhau chấm mút, song khi thuế bị
thiếu, lính trốn thì lại đổ trách nhiệm cho phủ huyện).
Từ đó, ông đề nghị cách bỏ những lại mục giảo quyệt, tham
nhũng; thuyên chuyển, phân tán, chuyển bổ đi nơi khác những viên chức là người
cùng làng hay cùng một tổng, huyện làm việc trong một nha môn với nhau từ 3 năm
trở lên. Đề nghị của ông được Vua Minh Mạng chấp nhận một phần.
PGS, TS. Bùi Xuân
Đính