Đình làng Mỹ Thôn, thôn Mỹ Thôn, xã Xuân Lai, huyện Gia Bình, khởi dựng thời Lê Trung Hưng với quy mô lớn, trang trí chạm khắc tinh xảo, nghệ thuật. Đình thờ 3 vị thành hoàng: Cường Bạo đại vương cùng 2 vị thiên thần Bảo hựu đô thiên và Uy Hiển thạc phu có công giúp vua Hùng thứ 6 đánh giặc Ân.
Đình Mỹ Thôn tọa lạc trên một khu đất đẹp ở phía Tây của
làng, xưa thuộc xã An Khoái, tổng Xuân Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Nay
là thôn Mỹ Thôn, xã Xuân Lai, huyện Gia Bình.
Theo các cụ già làng truyền lại: đình vốn được khởi dựng từ
thời Lê (thế kỷ XVII), đình xưa có quy mô to lớn gồm: 7 gian đại đình, 3 gian Hậu
cung, bộ khung bằng gỗ lim chắc khỏe, nghệ thuật trang trí chạm khắc tinh xảo.
Trước đình có hai dải vũ, hai bên cổng đình trang trí hình hai con nghê lớn.
Nhưng rất tiếc trong kháng chiến chống Thực dân Pháp, thực
hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến của nhà nước, đình đã bị đốt phá hoàn
toàn, rất may là toàn bộ đồ thờ tự của đình đã được nhân dân cất giữ chu đáo nên
không bị mất mát.
Năm 1995, với truyền thống hướng về cội nguồn, nhân dân địa
phương đã góp công, góp của xây dựng lại ngôi đình với dáng vẻ truyền thống
trên nền xưa đất cũ. Gần đây đình lại tiếp tục được trùng tu tôn tạo để có được
dáng vẻ khang trang như hiện nay.
Theo khảo sát tại đình, nhận thấy hiện nay đình còn giữ được
nhiều tài liệu hiện vật quý như: Kiệu bát cống, hoành phi, câu đối…đặc biệt là
bản thần tích chữ Hán được nhân dân phụng sao vào đời vua Thành Thái thứ 16
(1904).
Toàn bộ nội dung thần tích được viết trên một bản giấy màu
vàng có vẽ trang trí hình rồng vân mây, triện vuông hình chữ thọ giống như giấy
sắc phong, chữ viết chân phương, rõ nét.
Bản thần tích về một vị Công thần triều Tĩnh Vương và hai vị
đại vương âm phù.
Bản dịch Lê Thị Thanh Thư – Phạm Văn Thường
Ban Quản lý di tích tỉnh Bắc Ninh
Xin được dịch nghĩa như sau:
Ngọc phả ghi chép một vị công thần và 2 vị đại vương âm phù
triều Tĩnh Vương [thuộc chi Càn bộ trung đẳng] bản chính của Bộ Lễ.
Xưa vào thời Hùng Vương thứ 6, ở đạo Kinh Bắc (xưa gọi là quận
Bắc Giang), phủ Thuận An, huyện Lương Tài (trước gọi là Thiện Tài), trang Trình
Khê, có người họ Tạ, tên húy là Hương, vợ là Đào Thị, tên húy là Hinh.
Ông là con nhà giàu có, 3 đời làm nghề y, luôn làm việc thiện,
vợ chồng ông được ban đức rất hậu. Năm ông gần 50 tuổi, bà hơn 40, con trai mất
sớm. Bấy giờ, bà Đào Thị đêm ngủ mộng thấy Sơn Chủ Hổ Thần đến ứng cảm trong mộng,
từ đó bà có thai.
Đến ngày 15 tháng 3 năm Giáp Dần bà sinh hạ được một người
con trai, mặt mũi khôi ngô tuấn tú. Ông biết đó là sơn thần xuất thế, bèn đặt
tên là Cường Bạo.
Thời gian nuôi dưỡng qua đi, đến năm 16 tuổi, ông là người
có tư chất thông minh, hiểu binh thư, giỏi võ nghệ, chỉ cần một cành tre dài,
ông có thể nhấc được cả chiếc đỉnh, sức mạnh có thể chống với muôn người, không
ai địch nổi.
Năm ông 18 tuổi, cha mẹ đều mất, ông bèn chọn nơi đất tốt
làm lễ an táng thân phụ. Ba năm sau, bấy giờ có giặc Ân sang xâm chiếm nước ta.
Tĩnh Vương bèn tuyển mộ dũng sĩ tài giỏi ở các đạo trong quận huyện dấy binh dẹp
giặc.
Lúc đó Bạo công nghe có chiếu mệnh của thiên tử tuyển khắp
thiên hạ, ông liền chiêu mộ được 5000 binh lính tiến đến chỗ nhà vua để ứng tuyển.
Vua thấy ông có tài văn võ, bèn ban cho ông làm Hữu tướng quân tiến đến đạo
Kinh Bắc.
Quân lính bộ hành, trống dong cở mở bay phấp phới, vang động
núi rừng. Vào một hôm, đêm đến khi ông tiến quân đến đạo Kinh Bắc, phủ Gia Định,
trang An Khoái, chuẩn bị giao chiến với giặc Ân.
Thấy thế giặc mạnh, ông đã đến đền thần cầu âm phù giết giặc,
đến cuối canh 3 khi còn đang mơ màng thì bỗng thấy 2 ông lão mũ áo chỉnh tề đến
tự xưng là: Chúng tôi vốn là 2 vi thiên thần, cai trị tại miếu nơi đây. Một người
là Đô Thiên, một người là Thạc Phụ, chúng tôi nghe nói tướng quân nam chinh dẹp
giặc, cho nên linh ứng giáng lâm phù giúp. Bèn dâng một cây thiết trùy đặt tại
bến sông khu đất có hình rồng, dùng thần pháp trấn trị. Trong khoảnh khắc quân
giặc sẽ chạy tán loạn. Sau này xin cho chúng tôi được cùng phối thờ ở đó vậy.”
Hai thần nói xong, bèn cưỡi không trung bay đi, ông tỉnh giấc biết là thần linh
báo mộng.
Sáng hôm sau, ông cho mời các bậc kì lão và nhân dân trang
An Khoái dẫn ra bến sông khu đất có hình rồng ấy. Quả nhiên thấy cây thiết trùy
thần trượng đặt ở đó, ông liền đón nhận và nói với nhân dân rằng: “Đó là linh
thần của trang các ngươi đấy”.
Ngay lập tức ông truyền lệnh cho các binh sĩ, dân chúng thiết
lập đồn doanh tại khu đất hình rồng đó để ứng phó với giặc Ân. Từ khi có ông đến,
nhân dân trang An Khoái đều được yên ổn, nên họ rất cảm tạ ân đức của ông. Nay
lập đồn nhưng sau nhân dân sẽ dựng đền để thờ phụng ông, ông đồng ý.
Một hôm, các bậc kì lão cùng với dân chúng đến dự yến tiệc,
ông bèn nói với các vị phụ lão rằng: nhân dân trang An Khoái có hậu đức với ta,
còn để lại di mệnh để ngày sau phụng sự 3 vị. Hôm sau, thấy sứ giả phụng mệnh
chiếu thư sai ông đến đạo Kinh Bắc. Giặc Ân tới chỗ Tả tướng Phù Đổng, ông liền
cùng với Bạo công dấy binh thẳng đến chân núi Sóc Sơn, ngồi tại đó bàn kế sách
tiến đánh.
Khi giặc Ân trùng trùng, điệp điệp bốn phía ồ ạt kéo đến.
Quân của ông chưa kịp chuẩn bị giáp mũ, ngựa xe nên bị bao vây. Triều đình không
nhận được tin cấp báo nên không có quân cứu viện, ông liền kêu gọi binh sĩ đến
nói rằng: “Ta cùng với các tướng sĩ hãy quyết chiến một trận với giặc Ân.”
Bèn lấy cây thiết trùy thần trượng chỉ huy tiến đánh, giặc
Ân đại bại, tử trận rất nhiều, chém được cả chính tướng, tì tướng và hàng nghìn
tên địch, thu hết khí giới lương thực, đó là thiên tâm linh thần âm phù trợ
giúp. Sau khi dẹp được giặc Ân, chém chết Thạch Linh tướng giặc, Phù Đổng Thiên
vương cưỡi ngựa sắt ở núi Vệ Linh, lấy gươm chặt cây dung thụ rồi cưỡi không
trung mà đi.
Còn ông Cường Bạo trở về trang Trình Khê, khi ngồi ở giữa
nhà bỗng thấy một áng mây sắc vàng như hình dải lụa mầu đỏ giáng xuống trước đồn
doanh, bỗng thấy thân ông bay ra ngoài, rồi không biết hóa lúc nào (hôm đó là
ngày 20 tháng 6).
Nhân dân thấy kinh hãi bèn tâu lên triều đình, nhà vua bèn
sai sứ ban chỉ dụ sắc phong là: “Khang tế phúc thần”, chuẩn cho trang An Khoái
đón nhận mỹ tự và lập đền thờ phụng các ông.
Đến thời Hùng Duệ Vương vẫn còn dấu tích tên tuổi, nên nhà
vua đã phong tự hiệu cho các thần:
- Nhất phong: Bảo hựu Đô Thiên đại vương.
- Nhất phong: Cường Bạo khang tế Phúc Tướng đại vương.
- Nhất phong: Uy hiển Thạc Phụ đại vương.
Từ đó về sau các ngài đều linh ứng rõ ràng. Cho nên các bậc
đế vương đều gia phong mỹ tự. Đến thời Tống Thái Bình sai tướng Hầu Nhân Bảo
đem 10 vạn binh lính thủy bộ chia làm 2 đạo tiến vào xâm lược nước ta. Vua Lê Đại
Hành đại phá 10 vạn tinh binh cự chiến, khi đến đạo Kinh Bắc, phủ Thuận An, huyện
Gia Định thì gặp đội quân Tống đi đường thủy tiến đến. Nhà vua bèn đóng quân ở
bến sông, đêm đến vào đền cầu âm phù giết giặc.
Sau khi dẹp xong giặc, nhà vua sắc phong các ngài là “Thượng
đẳng phúc thần”, bắt được tướng Hầu Nhân Bảo và giết vô số binh lính rồi phụng
mệnh khải hoàn trở về kinh sư, mở tiệc khao thưởng tướng sĩ, bọn giặc sớm được
dẹp tan cũng là nhờ sự giúp đỡ của thần. Cho nên bèn gia phong cho các thần là:
- Nhất phong: Bảo hựu Đô Thiên hiển ứng, hộ quốc tế thế, trạch
dân hoằng hưu, phúc diễn hồng ân trợ thắng linh quang đại vương.
- Nhất phong: Cường Bạo dũng lược phổ tế, cương nghị dương
vũ, phù tộ hiển đức, phong công tá trị, triệu mưu hùng kiệt đại vương.
- Nhất phong: Uy hiển Thạc Phụ linh ứng hộ quốc tế thế trạch
dân hoằng hưu, phúc diễn hồng ân trợ thắng linh quang đại vương.
Sắc chỉ ban cho trang An Khoái trùng tu miếu điện để phụng sự
việc tế tự.
Hoàng triều Cảnh Hưng phong cho 3 vị đại vương là: Diên hy
tích khánh.
Hoàng triều Cảnh Thịnh phong cho 3 vị đại vương là: Dực
chính khai bình.
Phụng sự ngày sinh, ngày hóa, các tiết, húy, tự các thần. Cấm
không được đặt tên là: Đô Thiên, Thạc Phụ, Cường Bạo. Chuẩn cho trang An Khoái
phụng sự tế tự.
- Ngày sinh của thần là 15 tháng 3. Vào chính lệ lễ thượng hạ
gồm: bò, lợn, xôi, rượu, bánh chay, giao lưu ca hát.
- Ngày hóa của thần là 20 tháng 6, lễ vật dùng như trước, cấm
ca hát.
- Lễ cầu phúc vào ngày 15 tháng 9, lễ vật tùy theo.
- Lễ cầu phúc vào ngày 1 tháng 12. Chính lễ dùng như trước.
Ngày tốt tháng giêng năm thứ nhất niên hiệu Hồng Phúc
[1572].
Hàn lâm viện Đông các Đại Học sĩ, thần Nguyễn Bính phụng soạn
chính bản.
Ngày tốt tháng 2 năm thứ 6 niên hiệu Vĩnh Hựu [1740]
Quản giám bách linh Tri điện, Hùng lĩnh thiếu khanh, thần
Nguyễn Hiền tuân theo bản cũ.
Vào năm thứ 16 thời vua Thành Thái, tức ngày tốt tháng 3 năm
Giáp Thìn [1904], nhân dân đến xã Bình Trù phụng sao lạithần tích./.
(Thông báo Hán Nôm học 2012,tr.764-769)
Nghi môn Đình Mỹ Thôn
Đình có kiến trúc kiểu chữ đinh.
Đình
hiện nằm trên khu đất ở giữa làng, hướng Tây, phía trước là đường liên
thôn, phía bên phải là Nghè thôn, phía bên trái là nhà trẻ mẫu giáo của
thôn, phía sau là khu dân cư.
Bờ nóc đắp đôi rồng chầu mặt hổ phù.
Hiện nay đình có kết cấu kiểu chữ đinh, gồm Đại đình và Hậu cung, bộ khung bằng gỗ được trang trí hoa lá cách điệu.
4 mái đầu đao cong đầu rồng mềm mại.
Bộ lư hương bằng đá ngay trước Đại đình.
Đại
đình 3 gian 2 chái, 4 mái đao cong mềm mại, bờ nóc đắp đôi rồng chầu
mặt hổ phù, mái lợp ngói mũi hài, cửa mở ở 3 gian giữa kiểu “thượng song
hạ bản”, hai gian bên trổ cửa hình chữ Thọ tròn, bộ khung chịu lực bằng
gỗ chắc khỏe. 2 bộ vì gian giữa mỗi bộ vì 4 hàng chân cột, vì nóc chồng
rường giá chiêng, vì nách cốn mê. 2 bộ vì gian bên mỗi bộ vì 4 hàng
chân cột, vì nóc ván mê chạm hổ phù, vì nách ván mê.
Cửa mở ở 3 gian giữa kiểu “thượng song hạ bản”.
Vì nóc ván mê được chạm hổ phù.
Hậu cung 2 gian, bộ khung gỗ có kiến trúc đơn giản chủ yếu là bào trơn đóng bén, quá giang gác tường.
Ban thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh
Đình
Mỹ Thôn hiện còn bảo lưu được nhiều tài liệu cổ vật quý có giá trị như:
Thần tích, sắc phong, đồ thờ tự, kiệu bát cống, long đình…
Trong khuôn viên của di tích có giếng cổ và được trồng những cây cổ thụ tỏa bóng mát quanh năm.
Tường bao xung quanh đình.
Theo
các cụ cao niên trong làng cho biết, xưa lễ hội đình làng Mỹ Thôn tổ
chức rất lớn, kéo dài từ ngày mồng 8 đến hết ngày 18 tháng 11 (âm lịch)
hàng năm. Ngày nay, do điều kiện kinh tế xã hội và thực hiện nếp sống
văn hóa mới nên lễ hội đình Mỹ Thôn đã được rút ngắn thời gian còn 2
ngày, ngày 11, 12 tháng 11 âm lịch. Trong
những ngày hội, song song với phần lễ là phần hội với nhiều trò chơi
dân gian như: đấu vật, chọi gà, hát tuồng, chèo… thu hút đông đảo nhân
dân tham gia lễ hội.
Đình Mỹ Thôn đã được xếp hạng Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh theo Quyết định số 12/QĐ-UBND ngày 01/03/2012.