Đình Phù Lưu, thôn Phù Lưu, xã Trung Nghĩa, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh thờ nhị vị “Thánh Tam Giang” là những danh tướng thời Triệu Quang Phục, có công đánh đuổi quân xâm lược Nhà Lương vào thế kỷ thứ VI.
Làng Phù Lưu nay thuộc xã Trung Nghĩa, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Xưa kia làng có tên Nôm là “Chờ Lá”, vào cuối thời Nguyễn đổi thành xã Phù Lưu, tổng Nội Trà, huyện Yên Phong, Phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Phù Lưu vốn là một trong bảy làng Chờ (Chờ Cả - Phú Mẫn, Chờ
Ngô Nội, Chờ Nghiêm Xá, Chờ Trung Bạn, Chờ Ngân Cầu, Chờ Tiên Trà) trên vùng đất
cổ Yên Phong. Làng nằm trên một khu đất cao, xung quanh là đồng trũng và ao hồ.
Từ thuở xa xưa nơi đây đã có con người đến sinh cơ lập nghiệp, qua thời gian tạo
thành làng xóm đông đúc như hiện nay.
Theo quy luật tất yếu của lịch sử, một khi con người đã đầy
đủ về đời sống vật chất thì đời sống tinh thần cũng quan trọng không kém. Chính
vì lẽ đó các công trình kiến trúc công cộng như Đình, Chùa, Đền, Miếu… lần lượt
ra đời làm nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh, tín ngưỡng của cư dân nơi đây.
Cũng như bao làng quê khác trên vùng Đồng bằng châu thổ Bắc
bộ hình ảnh cây đa, bến nước, ngôi đình luôn là nguồn cội để những người xa quê
hướng về nơi “chôn nhau cắt rốn” của mình.
Căn cứ vào bản thần tích và 6 đạo sắc phong hiện còn bảo lưu
được tại đình đã cho biết rõ, đình Phù Lưu thờ nhị vị “Thánh Tam Giang” là những
danh tướng thời Triệu Quang Phục, có công đánh đuổi quân xâm lược Nhà Lương vào
thế kỷ thứ VI.
Sau khi mất, các ngài lại hiển ứng linh thiêng âm phù giúp
quân dân Đại Việt đánh thắng 30 vạn quân Tống xâm lược trên chiến tuyến Như
Nguyệt vào năm 1077. Các danh tướng họ Trương sống là anh hùng đánh giặc, chết
làm trung nghĩa linh thần, đã đi vào tâm linh tín ngưỡng của nhân dân và được
trên 370 làng (xã) ở vùng Bắc Ninh-Kinh Bắc tôn thờ làm thành hoàng làng, các
triều vua thời phong kiến đều có sắc phong, chuẩn cho nhân dân phụng thờ dài
lâu.
Theo các tài liệu còn lại tại địa phương cho biết đình Phù
Lưu xây dựng vào thời Lê Trung Hưng khoảng nửa đầu thế kỷ XVII. Trước đây đình
có quy mô lớn gồm nhiều công trình kiến trúc như nghi môn, tả vu, hữu vu, tiền
tế, đại đình… trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp giai đoạn 1946 - 1954 đình bị
phá huỷ hầu hết các hạng mục kiến trúc, đến nay chỉ còn toà đại đình 5 gian 2
trái và 1 gian hậu cung xây thêm sau này.
Đình nằm trên một bãi đất cao ngay đầu làng, mặt bằng kiến
trúc tổng thể hình chữ Đinh (J), nhìn về hướng Đông Nam là một công trình kiến
trúc cổ mang đậm phong cách nghệ thuật truyền thống.
Bộ mái đình kết cấu kiểu 4 mái, 6 đao cong lợp ngói vảy cá,
hệ thống bờ guột, bờ dải trang trí hình “hoa chanh hộp rỗng”, đỉnh nóc đắp hình
“lưỡng long chầu nguyệt”. Phần nền móng vỉa bằng đá tảng. Bộ khung chịu lực gồm
6 bộ vì kèo kết cấu theo kiểu thức con chồng giá chiêng, tiền bẩy hậu bẩy.
Trên các cấu kiện gỗ ở đình Phù Lưu tập trung chủ yếu ở các
bức cốn, đầu dư, đầu bẩy, con rường đều được chạm khắc trang trí “tứ linh, tứ
quý”, hoa lá cách điệu, mây xoắn, mây lưỡi mác… Nổi bật nhất là đề tài “tứ
linh, tứ quý” trang trí trên các bức cốn ở hai bộ vì gian giữa đình được tạo
tác bằng kỹ thuật chạm nổi, chạm lộng và chạm bong kênh mang phong cách nghệ
thuật thời hậu Lê thế kỷ XVII.
Mặt cốn phía bên trong lòng giếng là đề tài “tứ linh” với
nét chủ thể là hình tượng con rồng to lớn đang uốn mình trong những cụm mây lưỡi
mác. Phần đầu rồng nổi bật nhô cao, bờm, râu dựng đứng, miệng há rộng trong tư
thế “cuốn thủy” cùng dòng nước và một con cá chép đang cuốn theo. Phía trên cốn
phần ván nong gần sát mái chạm hình một con chim phượng trong tư thế đang bay,
mỏ phượng giống mỏ vẹt, mào, râu, tóc hình mũi mác, cánh xòe rộng được cách điệu
thành những vân mây mềm mại uyển chuyển.
Phía bên dưới cốn chạm hình lân, long mã, rùa đang nô đùa
trên sóng nước, vân mây tạo thành một hoạt cảnh vô cùng sống động. Mặt ngoài cốn
chạm đề tài “tứ quý” với nét chủ thể là hoa mai, xung quanh gồm tùng, cúc, trúc
quấn quýt với nhau tạo nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Các mảng chạm
này thể hiện sự tài hoa khéo léo của người nghệ nhân xưa.
Tồn tại song song với ngôi đình cổ còn một hệ thống hiện vật
có giá trị như: tấm bia đá tứ diện “Hậu thần bi kí” dựng ở phía bên tay trái
đình khắc năm Chính Hoà 15 (1694), 5 đạo sắc phong của triều Tây Sơn và triều
Nguyễn ban tặng vào các năm: Quang Trung 5 (1792) - 2 đạo, Duy Tân 3 (1909) - 1
đạo, Khải Định 9 (1924) - 2 đạo.
Một bản thần tích chữ Hán “Trương tôn thần sự tích” ghi chép
về sự tích gia đình thánh Tam Giang. Hệ thống hoành phi, câu đối trong đình khá
phong phú đa dạng, nội dung ca ngợi công đức các vị thần được thờ ở đình. Tại
gian giữa treo bức đại tự khắc nổi dòng chữ Hán “Trung nghĩa dân” do vua Lê Hiển
Tông ban thưởng vào năm Cảnh Hưng 5 (1744).
Ba chữ vàng này thể hiện tinh thần trung nghĩa và quyết tâm
của người dân Phù Lưu trong việc bảo vệ sự bình yên cho xóm làng trước sự tàn
phá do nạn giặc cướp hoành hành vào cuối thời Lê mạt. Ngoài ra còn nhiều đồ thờ
tự có giá trị cao như ngai thờ, bài vị, hương án, long đình, bát bửu, nồi hương
gốm, sứ… mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn.
Đặc biệt tại đình có 4 bức tranh hạc, trong đó 2 bức có voi
chầu, 2 bức có 5 ông quan võ đứng chầu 2 bên. Các bức tranh này vẽ rất khéo
trên gỗ, tục truyền có từ lâu đời.
Đình Phù Lưu nằm trong hệ thống 372 làng thờ thánh Tam Giang
(thượng Đu Đuổm hạ Lục Đầu Giang). Đình làng thờ 2 vị thần: đức thánh cả Tam
Giang Khước Địch Đại Vương (Trương Hống), đức thánh nhị Tam Giang Uy Địch Đại
Vương (Trương Hát) có công giúp Triệu Quang Phục đánh giặc Lương ở thế kỷ thứ
VI.
Lễ hội truyền thống của đình Phù Lưu được tổ chức vào ngày 15 tháng
Giêng Âm lịch hàng năm. Trong những ngày hội, bên cạnh những nghi thức
tế Thánh trang nghiêm là phần hội với nhiều trò chơi dân gian như: Đấu
vật, cờ người, chọi gà, hát chèo, hát trống quân, đặc biệt có tục “kéo
chài đốt pháo’ rất độc đáo” … đã thu hút đông đảo nhân dân địa phương
hướng về cội nguồn, củng cố tình đoàn kết làng xã và tham gia vào những
sinh hoạt văn hoá văn nghệ vui tươi lành mạnh, mang đậm bản sắc văn hoá
dân tộc.
Với những giá trị về mặt văn hóa, nghệ thuật đình Phù Lưu được
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cấp bằng xếp hạng là “Di tích kiến trúc nghệ
thuật” cấp Quốc gia, quyết định số 271/QĐ-BVHTTDL ngày 2/2/2012. Việc xếp hạng
có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong công tác gìn giữ, bảo tồn, phát huy giá trị
văn hóa đình làng trên vùng đất cổ Yên Phong nói riêng và quê hương Bắc Ninh -
Kinh Bắc văn hiến nói chung./.
Thu Thủy