Đình Lũng Xuyên (Còn gọi là đình Gạo) thuộc thôn Lũng Xuyên, xã Yên Bắc, huyện Duy Tiên tỉnh Hà Nam. Đình thờ Lý Thường Kiệt với ý nghĩa đây là địa điểm mà Thái úy cùng quân binh thường nghỉ lại mỗi khi hành quân qua. Gắn liền với các truyền thuyết của địa phương về sự kiện trên với các địa danh còn lại như ao Vua, đường Quan Nha, đống Cả, đường Voi.
Từ Thị xã Phủ Lý theo quốc lộ 1A, đến thị trần Đồng Văn 11
km, rẽ tay phải theo đường 60 về thị trấn Hòa Mạc 7 km, lại rẽ tiếp tay phải
theo đường liên xã khoảng 1,5 km thì tới đình Lũng Xuyên.
Đình Lũng Xuyên thờ vị anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt. Theo
truyền thuyết của người dân địa phương, con sông Châu chảy qua địa phận Lũng
Xuyên là con đường thủy mà Lý Thường Kiệt cùng các chiến binh của ông thường
qua lại khi đóng quân ở vùng Thịnh Châu hạ và An Xá. Trong các lần tuần binh
qua, ông và quân sĩ đã có lần nghỉ tại đây.
Xung quanh làng Lũng Xuyên còn thấy có nhiều các gò đống,
tương truyền đây là nơi để buộc thuyền chiến và để đồ dùng của các đạo quân do
Lý Thường Kiệt chỉ huy.
Nhân dân địa phương cho rằng, Lý Thường Kiệt đã từ Thăng
Long, theo sông Hồng, vào sông Châu (có nghỉ lại Lũng Xuyên), rồi ra sông Đáy.
Hiện nay, tại đình vẫn còn nhiều bài văn tế ca ngợi công lao, nhân đức của Thái
úy, ở hai cung còn có hàng chữ khắc trên xa ngang của vì kèo thứ nhất giáp với
tiền đường “Phát Tống bình Chiêm, an dân muôn thuở”chính là để ngợi ca công lao
to lớn của ông đối với đất nước.
Đình được xây dựng trên mảnh đất rộng, cao ráo, thoáng đãng.
Đình quay hướng nam, được kiến trúc theo lối chữ đinh, tiền đường 5 gian, hậu
cung 3 gian. Tòa tiền đường dài 17m20, rộng 8m80, mái cong, lợp ngói nam, đứng
hàng, thẳng lối, ngói lợp kiểu móng rồng.
Mặt tiền của tòa tiền đường là dãy cửa bức bàn, khung được tạo
bằng các gờ chỉ, giữa là ván bưng tạo kiểu panô. Hai bên xây bít bằng tường gạch,
giữa bức tường có hai cửa sổ.
Hai hàng cột trong tòa tiền đường được làm kiểu búp đòng, giữa
to hai đầu nhỏ, đặt chân trên tảng đá xanh hình vuông, trên mặt đá tảng nổi
gương tròn tương xứng với đường kính của chân cột. Dàn mái còn giữ được một số
hoành tròn đường kính 12cm, các lần trùng tu sau này bổ sung nhiều hoành vuông
có cạnh 12cm.
Toàn cảnh Đình Lũng Xuyên. Ảnh: Hùng Phong Lê - Nguyễn Huân /Đền Miếu Việt
Hậu cung 3 gian bắt mái với gian giữa của tòa tiền đường, cửa
giữa của hậu cung có mảng chạm hai con long mã chầu, mặt hổ phù với chân nắm lấy
đầu của hai con long mã. Dưới bức chạm là bức đại tự khắc 4 chữ Hán lớn:
"Sơn xuyên chung tú" (sáng đẹp cùng sông núi). Ra vào hậu cung chủ yếu
qua 2 cửa nách, cửa giữa thường xuyên đóng, chỉ mở khi có đại lễ.
Ở sân đình còn có hệ thống cột đồng trụ, gồm có đế trụ đắp
theo kiểu thắt cổ bổng, thân cột được đắp gờ nổi ở bốn cạnh, phía trên là đèn lồng
và trên cùng là trục đỡ hai quả dành dành lớn. Tiếp đến là tả môn và hữu môn
đăng đối, mỗi cửa có 4 mái cong với đầu đao, ngói ống. Trong sân là hai dãy tảo
xá, mỗi dãy 3 gian dùng để đón khách trong các kỳ lễ hội. Tổng thể công trình tạo
thành một thể thống nhất từ bố cục đến nghệ thuật chạm khắc, tạo vẻ cổ kính, thể
hiện chiều sâu văn hóa của ngôi đình.
Đình Lũng Xuyên có một số mảng chạm khắc đẹp được các nghệ
nhân xưa dày công trau chuốt. Trên các bờ bảng, bờ dải, giao góc của đình được
đắp hình các con xô, phượng, đầu kìm. Đặc biệt, trên bờ nóc, đắp đôi rồng chầu
mặt nhật. Rồng uốn 3 khúc, đầu rồng nhô cao, dao bay về phía sau, thân rồng được
tạo vẩy bằng các mảnh sành sứ vỡ. Hai đầu hồi còn đắp hai đầu rồng và có dao
cong.
Ở tòa tiền đường, trên các vì kèo, xà nách có chạm trổ hình
đầu và thân rồng với nhiều dáng vẻ: con thì dữ tợn, con thì hiền từ, râu tóc xoắn
theo nhiều kiểu khác nhau. Các vì góc và các con rường cũng đục hình lá lật, lá
hỏa cách điệu.
Trên vì nách bên phải phía ngoài gian giữa có nhiều mảng chạm
khắc với nhiều đề tài phong phú. Đề tài được thể hiện ở đây là long cuốn thuỷ:
con rồng uống thành 3 khúc. Phía trên đầu rồng là con phượng xòe cánh như đang
bay. Đằng sau rồng là con ly đang cười. Phía dưới rồng là con rùa, cá chép, cua
đang vui đùa, đan xen các con vật là hình vân mây sóng nước hoa sen khoe sắc và
các lá sen. Dưới nách xà chạm hình con ly đang cầm thẻ bài, trên thẻ có hai chữ
Đại vương bằng chữ Hán.
Mảng chạm đối diện với mảng trên là cảnh long vân tụ hội:
con rồng vẻ mặt tươi vui hai chân dang ra hai bên, các ngón bám chặt lấy hai
đám mây. Trên cùng là phượng, bên phải là long, mã, bên trái là ly, phía dưới
là rùa, cá chép, đan xen các hoa sen, lá sen cùng các hình vân mây song nước.
Dưới xà nách chạm nổi một con ly đang cười, hai chân đang rẽ nước.
Trên xà nách phía sau gian giữa là mảng chạm cảnh mẫu long
giáo chủ: rồng mẹ, rồng con đang vui đùa với nhau, những con rồng con nghịch ngợm
cưỡi trên đầu, bám trên thân và vờn dưới chân của rồng mẹ. Phía trên và dưới đều
chạm hình phượng dạng xòe cánh như đang vui cùng với rồng. Dưới chân rồng mẹ
còn có long, mã và ly đang nhìn về phía rồng con. Dưới cảnh này là rùa trên
lưng đeo ấn cùng với hoa, lá sen, sóng nước. Ngoài đề tài trên còn có cảnh núi
non cây cối và một ngôi miếu nhỏ, bên cạnh ngôi miếu là một dòng sông, sóng nước
đang cuồn cuộn.
Mảng đối diện có bố cục trung tâm là cảnh rồng cùng ly, long
mã đang vui đùa. Chân rồng nắm lấy mình con ly, long mã thì đang nhảy bên trên
là hai con phượng đang bay. Phía dưới là ảnh ao sen, trong ao sen là rùa, cá
chép, tôm, cua đang bơi.
Mặt sau của các mảng chạm khắc này đều chạm nổi các cảnh
tùng lộc, mai hóa long, trúc hóa long, cúc hóa long.
Ở xà góc của gian bên phải có mảng chạm khắc độc đáo. Hai
con rồng lớn đang cuộn mình vào nhau, đao, râu, tóc, bay thẳng về phía sau,
xung quanh sóng nước cuồn cuộn. Trước mặt rộng chạm cảnh một cây tùng lá to,
trên cây có bốn con chim đang hót, ở giữa thân cây là ba con khỉ đang đánh đu,
hái quả và trêu đùa nhau, vắt vẻo trên cành cây. Ở đây chất cung đình và chất
dân gian đã kết hợp, hòa quyện vào nhau.
Chạm khắc trên các xà lòng, xà nách tuy đơn giản nhưng đáng
chú ý ở sự gia công tinh tế trong việc tạo độ nhấn, soi chỉ, soi ống tơ và tạo
hình hoa lá cách điệu. Tổng thể công trình tạo thành một hệ thống nhất từ bố cục
đến nghệ thuật chạm khắc, giải pháp kỹ thuật. Do đó đình Lũng Xuyên mang đậm
phong cách kiến trúc cổ truyền của dân tộc.
Trước đây đình Lũng Xuyên có nhiều đồ thờ tự đẹp. Qua năm
tháng chiến tranh, nhiều hiện vật bị mất mát. Hiện nay trong hậu cung chỉ còn cỗ
ngai thờ thần hoàng Lý Thường Kiệt là tiêu biểu, ngai cao 1,1m chạm khắc tập
trung trên thân và tay ngai. Tay ngai tạo thành hai đầu rồng, đao bay về phía
sau. Thân ngai là hàng song tiện, ở giữa tạo hình rồng cuốn quanh lấy song.
Lưng ngai uốn cong, giữa lưng ngai phía trên là hình mặt trời đang tỏa ánh hào
quang, bên dưới chia làm ba ô đục thông phong hình phượng múa, mặt hổ phù long
mã, ở hai bên điểm lưng ngai chạm trôt hình rồng lượn. Đế ngai được làm kiểu
chân quỳ dạ cá, bốn chân tạo thành bốn đầu rồng. Chính giữa mặt đế trước là mặt
hổ phù được chạm tỷ mỷ, miệng ngậm chữ thọ. Phía trên mặt hổ phù là các băng
cánh sen dẹo, lá sòi đẹp mắt.
Cùng với các đồ tế khí khác như quả chuông nhỏ, đỉnh hương đồng
và cây nến đồng, ngai thờ đã tạo nên vẻ cổ kính cho ngôi đình thờ vị thành
hoàng từ hơn 1 thiên niên kỷ trước.
Trong hậu cung còn có chiếc chuông nhỏ cao 50cm, đáy 30cm,
quai chuông tạo hình hai đầu rồng một thân. Ngoài ra, đình Lũng Xuyên còn có một
bộ tam sự bằng đồng gồm đỉnh hương và hai cây nến. Đỉnh hương cao 50cm, thân
hình bầu, có gắn hai quai, 3 chân tạo hình chân ly, nắp tạo hình con nghê đang
cười. Những hiện vật trên góp phần tạo nên giá trị văn hóa của đình Lũng Xuyên.
Thôn Lũng Xuyên quê hương của đồng chí Nguyễn Hữu Tiến với
ngôi đình làng Lũng Xuyên là cái nôi cách mạng của tỉnh Hà Nam, đã chứng kiến
biết bao sự kiện lịch sử trọng đại, chứng kiến sự phát triển của cách mạng
trong những năm chuẩn bị thành lập Đảng và những năm chuẩn bị khởi nghĩa giành
chính quyền gắn với tên tuổi đồng chí Nguyễn Hữu Tiến, người cộng sản kiên cường
bất khuất.
Sự kiện lịch sử trọng đại nhất là tại đình Lũng Xuyên năm
1927 đã chứng kiến một cuộc họp thành lập chi bộ Việt Nam thanh niên cách mạng
đồng chí hội đầu tiên của tỉnh Hà Nam. Đồng chí Trần Tử Yến thay mặt kỳ bộ Bắc
Kỳ công nhận chi bộ Hà Nam gồm 3 đồng chí: Nguyễn Hữu Tiến, Vũ Văn Uyển và Trần
Tử Yến là đảng viên của chi bộ.
Sau sự kiện lịch sử trọng đại này nhiều tổ chức quần chúng
như Hội tương thế, Hội hỷ, Hội bóng đá được thành lập thu hút hầu hết thanh
niên ở Lũng Xuyên tham gia thường xuyên tổ chức sinh hoạt tại đình làng.
Tại đình làng đồng chí Nguyễn Hữu Tiến đã lấy nơi đây để dạy
chữ quốc ngữ cho trẻ em và phụ nữ với biệt danh là giáo Hoài.
Tháng 11-1929 tại đình Lũng Xuyên đã tổ chức thành lập chi bộ
Đông Dương Cộng sản Đảng gồm 6 đảng viên. Đồng chí Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Doãn
Chất, Vũ Uyển, Nguyễn Văn Trạc, Phạm Tô, Phạm Văn Bình, đồng chí Nguyễn Hữu Tiến
được cử làm bí thư chi bộ.
Năm1929 nhóm cộng sản đã cắm cờ đỏ búa liềm của Đảng trên
cây gạo của đình làng.
Cùng với đình Lũng Xuyên các cơ sở khác trong thôn đã ghi những
dấu ấn trong thời kỳ Đảng ta ra đời.
Tháng 9-1930 tại nhà đồng chí Nguyễn Văn Trạc ở Lũng Xuyên
đã diễn ra hội nghị thành lập Ban chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh Hà Nam. Hội
nghị cử ra Ban Tỉnh uỷ lâm thời gồm 3 đồng chí (Lê Công Thanh, Nguyễn Hữu Tiến,
Nguyễn Duy Huân), đồng chí Lê Công Thanh được cử làm Bí thư.
Năm 1931 Lũng Xuyên trở thành cơ sở cách mạng vững mạnh của
huyện và tỉnh Hà Nam, trở thành trụ sở hoạt động của cơ quan lãnh đạo của tỉnh,
là cơ sở an toàn để cán bộ Xứ uỷ, tỉnh uỷ qua lại thường xuyên.
- Cơ quan ấn loát của Đảng được đặt tại nhà đồng chí Nguyễn
Hữu Tiến.
Hậu cung đình làng là nơi cất giấu tài liệu của Đảng, hai
bên dải vũ tổ chức cắt bán thuốc bắc để làm nơi theo dõi nắm bắt tình hình địch
và cũng là làm kinh tế để lấy tiền hoạt động.
Tháng 11-1931 hội nghị đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Nam họp tại
nhà ông Chưởng có đại biểu của xứ uỷ và 13 đại biểu của các huyện thị tham dự.
Hà Nam đã bầu ra Ban Tỉnh uỷ chính thức gồm 7 đồng chí, đồng chí Nguyễn Hữu Tiến
được cử làm công tác tuyên truyền của Đảng bộ.
Trong thời kỳ khởi nghĩa giành chính quyền tại đình Lũng
Xuyên lại liên tiếp xảy ra các sự kiện lịch sử:
- Ngày 15 và ngày 16 -8-1945 một cuộc họp cấp tốc của ban
cán sự tỉnh Hà Nam được họp tại nhà bà Gái để bàn kế hoạch khởi nghĩa giành
chính quyền trong toàn tỉnh.
- Đêm ngày 19-8-1945 lực lượng chính của cách mạng tập trung
ở đình Lũng Xuyên để chờ lệnh xuất phát.
- Sáng sớm 20-8-1945 tại sân đình Lũng Xuyên 3 tiểu đội vũ
trang của huyện đã làm lễ tuyên thệ trước cờ Tổ quốc và tiến quân khởi nghĩa
giành chính quyền trong toàn huyện thắng lợi.
Lũng Xuyên - Mảnh đất cách mạng của tỉnh Hà Nam luôn tự hào
về truyền thống quê hương. Nơi sân đình đã tiễn đưa biết bao người con của quê
hương lên đường bảo vệ Tổ quốc va cũng không ít người đã hy sinh vì quê hương đất
nước.
Biết ơn nhà cách mạng tiền bối, Đảng bộ và nhân dân Duy Tiên
đã xây dựng nhà lưu niệm đồng chí Nguyễn Hữu Tiến ngay trên mảnh đất đã gắn bó
tuổi thơ với những năm tháng hoạt động cách mạng của đồng chí.
Ngôi nhà lưu niệm được xây dựng trên nền nhà cũ gồm 4 gian
khang trang sạch đẹp. Hiện tại nhà lưu niệm để cho bà Nguyễn Thị Xu là con gái
của đồng chí Nguyễn Hữu Tiến ở và hương khói cho đồng chí. Đồng thời cũng để
đón các đoàn khách tới tham quan thắp hương tưởng niệm .
Trong những năm qua ngôi đình lịch sử và nhà lưu niệm đồng
chí Nguyễn Hữu Tiến đã đón nhiều đoàn khách của Trung ương, của Tỉnh, của Huyện.
Các lớp học ngoại khoá, lớp đối tượng Đảng của huyện, tỉnh đều về đây tham quan
nghe giới thiệu lịch sử và thắp hương tưởng nhớ đồng chí Nguyễn Hữu Tiến.
Đình Lũng Xuyên - cũng là nơi lấy lửa truyền thống cho hội
trại, hội thi của huyện Duy Tiên. Thôn Lũng Xuyên - đình Lũng Xuyên ngôi nhà
lưu niệm đồng chí Nguyễn Hữu Tiến là điểm du lịch lịch sử có ý nghĩa xủa huyện
Duy Tiên nói riêng và tỉnh Hà Nam nói chung.
Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Hà Nam