Đình Mạch Tràng là tên thường gọi ngôi đình theo địa danh thôn. Thôn Mạch Tràng nằm ngoài vòng thành ngoại về phía Tây Nam, là một thôn lớn nhất trong các thôn xóm của xã Cổ Loa.
Ngôi đình làng được xây dựng trên một khu vực cao ráo, rộng
khoảng 3.000m2 ở địa đầu phía Tây thôn Mạch Tràng, trước mặt là trục đường làng
theo hướng tây bắc - đông nam. Trước đình có giếng ngọc, xa xa là cánh đồng rộng
ven sông Hoàng.
Nghi môn đình Mạch Tràng
Mạch Tràng là một làng lớn trong Bát xã Loa Thành xưa nên
ngôi đình cũng khá to đẹp. Từ đường làng vào đình ta phải qua một Nghi môn kiểu
tứ trụ và một sân rộng hơn 2000m2 lát gạch Bát Tràng. Qua nhà tiền tế là toà đại
đình, cách nhau gần 2m. Cũng trong khu vực sân trước đình chếch về phía tây so
với tiền tế có am thờ công chúa Mỵ Châu.
Mặt trước tòa tiền tế
Toà đại đình được xây dựng trên một nền cao 50cm so với mặt
sân, có mặt bằng bố cục kiểu chữ “Đinh”. Mặt trước có hệ thống cửa bức bàn chắc
chắn chạy suốt ba gian giữa. Bậc thềm lên xuống được lát những tấm đá xanh. Các
gian bên và hồi còn lại được xây bịt và đấu với tường hậu.
Đại đình nhìn từ hướng Đông Nam
Từ phía ngoài có thể thấy bộ mái đình rất rộng lớn lợp ngói
ta rất dầy dặn với bốn góc đao cong chắc khoẻ. Bờ nóc, bờ chảy trên mái được đắp
trang trí hoạ tiết hoa chanh cùng với hai đầu nóc mái hình đầu kìm.
Mặt bằng đình khá rộng (14,4m x 21m) được phân thành 5 gian
chính và hai hồi. Kết cấu kiến trúc gồm 4 bộ vì chính và 2 bộ vì hồi bằng gỗ
lim khá to và chắc khoẻ. Các bộ vì được cấu tạo theo kiểu “Thượng giá chiêng, hạ
chồng rường, kẻ bẩy” dựa trên 6 hàng chân cột, trong đó các cột cái to hơn, hai
vì gian giữa lớn hơn các bộ vì bên.
Phần chạm khắc trang trí trên kiến trúc của đình được tập
trung nhiều vào hai bộ vì gian giữa. Ngoài các đầu dư chạm đầu rồng với các đường
nét chắc khoẻ theo lối chạm lộng, các thanh chồng rường đều được trang trí hình
tượng “Tứ linh” như một bức tranh sinh động thể hiện ước vọng của nhân dân mong
cho mưa thuận gió hoà, cây cối đơm hoa kết trái, cuộc sống sinh sôi nảy nở với
các hình tượng “Rồng vờn mây, phượng hàm thư, lân nhảy múa, rùa đội hoa” đan
xen là “tùng - trúc - cúc - mai” thể hiện bốn mùa lúc nào cũng đầy màu sắc của
cỏ cây hoa lá.
Những hình ảnh và phong cách chạm khắc trên cũng được lặp lại
trong những khoảng chồng rường ở các bộ vì khác, nhất là hai vì hồi nhưng, điều
đáng chú ý ở đây là chúng ta có thể dễ dàng phân biệt hai lối trang trí khác
nhau của bộ vì bên phải và bên trái. Các vì phía bên trái được tạo tác trang
trí kỹ lưỡng, tinh tế hơn. Các vì bên phải thiên về sự giản dị, chắc khoẻ. Tuy
vậy, các nguyên tắc chung về kết cấu, dạng thức thì vẫn được tôn trọng. Theo
nhân dân địa phương cho biết đó là kết quả công việc của hai hiệp thợ, của hai
giáp thi thố với nhau khi dựng đình.
Gian giữa của ngôi đình là gian có kích thước rộng nhất.
Ngoài phần chạm khắc trên bộ vì, trần nhà còn được bưng ván có ghép khuôn
tranh, sơn son thẫm và thiếp vàng có trang trí hình tượng “Tứ linh, tứ quý” và
hình một mặt trời nổi cao ở chính giữa.
Hậu cung gồm hai gian nối với toà đại đình có đặt khám thờ
vua An D-ương Vương ở giữa chừa lối đi xung quanh.
Trang trí nội thất của ngôi đình: Chính gian giữa ở phía
trên có bức hoành phi ghi bốn chữ Hán “Vạn cổ anh linh” phía trong hậu cung có
hai hoành phi có chữ đề: “Ức niên hương” và “Thánh cung vạn tuế”. Có một số câu
đối: “Tây Thục giáng thần sơn giao cổ; Nam giao hiển thánh miếu ninh tân”
(nghĩa là: Tây Thục giáng thần non nước cũ; Nam giao hiển thánh miếu đền nay) và
“Phong Khê nhất diện uyển vương thành Hùng lược kim hậu hữu; Âu Lạc ức niên phù
bảo tộ anh linh khơi cổ sơ vô” (Nghĩa là: Một mặt Phong Khê thượng uyển vương
thành Hùng triều nay vẫn thế; ngàn năm Âu Lạc phù vận nước anh linh tỏ rõ trí
xa).
Tại đình hiện còn lu giữ được một số di vật mang niên đại thế
kỷ XVIII, XIX: ngai thờ bài vị “Thục An Dương Vương hoàng đế”; sập thờ kiểu
“chân quỳ dạ cá” sơn son thiếp vàng; kiệu “Bát cống” sơn son thếp vàng và một số
đồ thờ khác như: bộ đỉnh thờ bằng đồng, đôi hạc gỗ sơn thếp, hai lưỡi phủ việt
trong bộ “Bát bửu”, chuông đồng, cây đèn đồng và ba án gian sơn thếp có niên đại
gần đây.
Trong các hiện vật trên đáng chú ý là các đồ thờ bằng gỗ được
chạm khắc tỉ mỉ, tinh tế, sơn son thếp vàng, đã trải qua khoảng hơn 200 năm vẫn
giữ được màu sắc tươi đẹp. Đó là chiếc ngai thờ đi liền với sập thờ được tạo
tác với phong cách nghệ thuật thế kỷ XVIII có chạm khắc đề tài “Tứ linh” nhưng
hình tượng “Long” ở đây được nhấn mạnh và bố cục hết sức hài hoà kết hợp với
các hoa văn hoa lá dây và mây cuốn thật là nhuần nhuyễn.
Ở bộ kiệu “Bát cống” cũng vậy hình tượng “Long” được nhấn mạnh
nhưng thể hiện bằng những đường nét chắc khoẻ dữ dội hơn. Những sự liên kết các
đường nét trang trí của thanh đòn ngang với thanh đòn dọc, của bờm rồng với
móng vuốt hổ trên mặt “Hổ phù” cũng thật là ăn nhập một cách tự nhiên.
Phía trước đại đình là toà tiền tế có kiến trúc nhỏ hơn với
diện tích mặt bằng gần 100m2, kết cấu khung mái kiểu “vì kèo” bằng gỗ lim gồm 3
gian, mái lợp ngói mũi hài, tường hồi trụ biểu xây gạch, bó vỉa “Tam cấp” bằng
đá tảng, nền lát gạch Bát Tràng phục chế. Toà tiền tế này mới được phục hồi năm
2001.
Đình Mạch Tràng là nơi thờ vua An Dương Vương, vị vua được
đánh giá là một nhà quân sự tài ba có công trong buổi đầu dựng nước và giữ nước
của dân tộc. Đình Mạch Tràng có niên đại không sớm (khoảng cuối thế kỷ XVIII)
nhưng với quy mô và kiểu thức cũng như nghệ thuật chạm khắc gỗ, sơn thếp trên
các cấu kiện gỗ và đồ thờ ở đây cho ta thấy giá trị của kiến trúc nghệ thuật
này.
Đã từ hàng trăm năm nay, đình Mạch Tràng vẫn là nơi quy tụ
những tài hoa nhiều mặt của địa phương, là trung tâm sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng
của khối cộng đồng làng xã trong mối quan hệ ban giao với các địa phương lân cận.
Cho đến tận bây giờ, ngôi đình vẫn là cây cầu nối lịch sử với hiện tại, nối liền
thế hệ này với thế hệ khác để cho truyền thống của một địa phương luôn luôn được
phát huy những gì cao đẹp của giá trị văn hoá tinh thần.