Đình Mai Dịch được xây dựng từ thế kỷ XVIII. Thờ: Hậu Lý Nam Đế, húy Lý Phật Tử 李 佛 子 (?-602). Đình được xếp hạng Di tích quốc gia năm 1995.
Mai Dịch vốn thuộc về đất làng Dịch Vọng Sở, sau mới tách
thành một làng riêng biệt. Suốt từ thời Hậu Lê đến thời Nguyễn, nơi đây từng
là một dịch trạm lớn trên con đường huyết mạch nối thành Thăng Long—Hà Nội với
trấn Sơn Tây, do đó mà thành tên. Ngày nay chỉ còn lại địa danh và
di tích ngôi đình làng toạ lạc tại số 6 phố Hồ Tùng Mậu (góc tây-bắc cầu
vượt Phạm Hùng), thuộc phường Mai Dịch, quận Cầu Giấy, TP Hà Nội.
Cổng đình Mai Dịch. Ảnh © 2013 NCCong
Cũng như không ít ngôi đình khác, đình Mai Dịch từng là nơi
mở các lớp tiểu học trong giai đoạn mà ngành giáo dục Việt Nam còn rất
thiếu cơ sở vật chất kể từ khi quân Pháp rút đi vào năm 1954. Tuy vậy nhiều
trẻ em từ lò đào tạo nhỏ bé này về sau đã thành danh và có cống hiến cho đất
nước. Cũng từ 1954, trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã đóng trụ sở
chính ở đối diện phía bên kia đường Phạm Hùng.
Bước sang thế kỷ XXI, đoạn đường chạy từ cầu vượt Phạm Hùng
đến Cầu Diễn được mở rộng và nâng cấp, đặt tên là phố Hồ Tùng Mậu. Cổng đình
ngày nay là một điểm dừng của nhiều tuyến xe bus. Do tôn cao vỉa hè
mà con ngõ vào đình và sân ngoài bị thấp hơn mặt phố, khiến cho sau mỗi trận
mưa to thì lại ngập trong nước.
Sân đình Mai Dịch. Ảnh © 2013 NCCong
Ngọc phả đình Mai Dịch có ghi lại: Xưa, đức ngài Lý Bôn dấy
nghiệp ở huyện Thái Bình, vốn trước làm quan cho nhà Lương, đính hôn cùng bà
Nguyễn Thị Thuỳ. Vợ chồng cùng lòng tu nhân tích đức, ba năm hương hoả, đêm
ngày phụng thờ Thượng Đế. Vào một ngày tháng 5 năm Quý Mão, bà mộng thấy hào
quang rực rỡ đầy nhà, phút chốc thấy có con rắn đốm trắng cuộn khúc, tỉnh dậy lại
là bông hoa sen. Từ đó, bà mang thai, đến ngày 7 tháng Giêng năm Giáp Thìn sinh
được cậu bé vẻ mặt tươi như hoa đào nở, da sáng như nước trong hồ, nên đặt tên huý
là Diêm La Thiên Tư, còn gọi là Phật Tử. Cậu bé tướng mạo thuộc dòng thế phiệt,
quý cách, hùng dũng kỳ tài, khi trưởng thành, thiên tư khác lạ, văn võ toàn
tài.
Sau khi vua Lý Nam Đế mất, Lý Phật Tử cùng với người anh
họ là Lý Thiên Bảo ngầm mưu khởi binh giao chiến với vua Triệu Quang Phục. Hai
người bị thua ở cửa sông Tô Lịch và Gia Ninh nên đã rút quân về Chương Mỹ dựng
đồn luỹ phòng ngự. Sau khi nhận được lời giáo huấn của Thần nhân ở động Hương
Tích, Lý Phật Tử và Lý Thiên Bảo liền chỉnh đốn binh mã tiến xuống phía Đông
giao chiến với Triệu Việt Vương ở huyện Thái Bình. Quân của hai vị lại thua trận,
xin cầu hoà. Triệu Việt Vương không nỡ, bèn cắt đất chia ranh giới cho Phật Tử ở
bãi Quân Thần.
Phật Tử cho con trai là Nhã Lang xin cầu hôn với con gái Triệu
Việt Vương là Cảo Nương, Việt Vương đồng ý. Nhã Lang lừa dối Cảo Nương lấy cắp
móng rồng rồi bày mưu đánh úp Triệu Việt Vương. Triệu Việt Vương thua trận chạy
về cửa biển Đại Nha rồi tự vẫn. Phật Tử lên ngôi đổi niên hiệu là Thiên Đức.
Sau đó nhà Tuỳ sai Lưu Phương dẫn binh sang xâm lược. Lý Phật Tử hội họp văn võ
kéo xuống chân thành. Hai vương chia quân làm hai cánh nhưng bị đại bại, Lý Phật
Tử xin hàng, theo về Bắc quốc.
Đại đình Mai Dịch. Ảnh © 2013 NCCong
Ngày 2 tháng 3 năm Ất Dậu, Lý Thiên Bảo và Lý Phật Tử nửa
đêm cùng nằm mộng thấy một người mặc áo xanh, tay cầm cờ vàng tự xưng là Thiên
sứ, quỳ trước sân nói với hai người rằng: “Hương đăng muôn thuở tại trang ấp, sống
làm vương tướng, thác làm danh thần, anh em hai vương anh linh giúp nước, giúp
dân ban bố phúc thần”. Tức thì hai vương lâm bệnh nóng lạnh, thân thể đau yếu bất
an rồi hoá.
Đến đời vua Lý Thái Tông, các quan trong triều xét công ban
thưởng cho trung thần tiết nghĩa giữ nối dòng dõi, bộ Lễ viết sắc phong cho Lý
Phật Tử được thờ tại 147 đền thờ. Lại quy định rằng: hàng năm, ngày 8, 9, 10
tháng Giêng dâng cỗ chay, ngũ quả bánh đường 3 màu, ca xướng. Các triều Lê, Tây
Sơn và Nguyễn đều ban sắc phong tặng cho Lý Phật Tử là Thượng đẳng phúc thần.
Kiến trúc
Đình Mai Dịch có ít nhất từ thế kỷ XVIII. Trải qua 4 thế
kỷ với nhiều lần sửa chữa, tôn tạo nên ngôi đình không còn giữ được
dáng dấp ban đầu. Khu di tích hiện nay quay mặt về hướng nam và trải
dài theo chiều dọc, tạo thành một mặt bằng kiến trúc hình “chữ Công”.
Nghi môn xây kiểu trụ biểu, sau cổng là con ngõ ngắn
dẫn đến bức bình phong nhỏ. Có một sân gạch rộng ở trước tòa đại
đình 3 gian 2 dĩ. Hai nhà tả hữu mạc xưa kia ở ngoài sân đình, sau không còn.
Thay vào đó, ở phía đông hiện nay là một ao sen nhỏ hình con cá với tường bao
uốn quanh. Có một phương đình nằm ở giữa 2 dãy hành lang thấp và hậu
cung. Mỗi dãy hành lang rộng 5 gian, gần đây mới được xây thêm theo kiểu vì
kèo quá giang.
Di sản văn hóa lịch sử
Đình Mai Dịch hiện vẫn lưu giữ được cuốn thần phả và 9 đạo sắc
phong của các triều Hậu Lê, Tây Sơn và Nguyễn. Ngoài ra, trong đình còn có những
di vật phong phú với giá trị nghệ thuật và lịch sử quý báu, thuộc phong cách
nghệ thuật thế kỷ XVIII-XIX. Đáng kể là bộ hương án, long ngai, bài vị, hạc thờ,
bát bửu, án văn, cuốn thư, hoành phi, câu đối...
Chính điện đình Mai Dịch. Ảnh ©2013 NCCong
Đặc biệt cần lưu ý tấm bia đá mang tên “Cung phụng bi kí”,
ghi niên hiệu Cảnh Hưng thứ 21 (tức năm Canh Thìn 1760). Nội dung bia cho biết
những quy ước của làng về việc cúng tế, chuyển giao phần việc, định lệ bán vé
và phân chia “lộc thánh” trong từng kỳ Lễ, Tiết ở đây.
Lễ hội chính được tổ chức vào ngày 12 tháng Hai âm
lịch hàng năm tại đình làng Mai Dịch và đình làng Dịch Vọng Sở. Theo Quyết
định số 188/QĐ-BT ngày 13/02/1995 của Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin,
đình Mai Dịch đã được xếp hạng Di tích lịch sử - kiến trúc - nghệ thuật quốc
gia.