Được khởi dựng cách đây hàng trăm năm, đến nay, đình Mậu Duyệt ở thôn Mậu Duyệt, xã Cẩm Hưng (Cẩm Giàng), thờ phụng thành hoàng làng là danh tướng Lữ Gia vẫn giữ được gần như nguyên vẹn nét kiến trúc cổ thời Lê.
Khung cảnh yên bình tại
đình Mậu Duyệt
Nơi thờ phụng vị tướng có công
Theo sử sách và những văn bia cổ còn lưu giữ tại đây thì
đình Mậu Duyệt thờ Đại vương Tể tướng Lữ gia, ông mất năm 111 trước Công
nguyên.
Từ nhỏ ông đã thông minh ham học, lớn lên trở thành trang
nam nhi văn võ song toàn. Năm 21 tuổi, ông được nhà vua trọng dụng, phong chức
Tể tướng.
Một lần đi qua trại Mậu Duyệt, thấy thế đất nơi đây sơn thủy
hữu tình, vượng khí hào hùng, dân cư đông đúc nên ông cho đóng quân, dựng trại,
xây thành đắp lũy, lập tuyến phòng thủ kiên cố.
Ông khuyến khích người dân trồng trọt, chăn nuôi, mang nghề
tầm tang canh cửi giúp dân an cư lạc nghiệp, nên ở đây tục truyền có câu:
Hỡi cô hái lá dâu xanh/ Có về Mậu Duyệt với anh thì về/ Mậu
Duyệt có cây bồ đề/ Sông Nghĩa tắm mát có nghề cửi canh.
Sau khi nhà vua băng hà, nhà Hán xâm chiếm nước ta, ông kéo
quân dẹp thù trong giặc ngoài và giành được thắng lợi. Nhà Hán tiếp tục dấy
binh, lần này địch mạnh ta yếu, không chống nổi cường bạo, ông liều thân để báo
đền nợ nước nhà.
Người dân Mậu Duyệt nhớ công đức liền lập ông làm thành
hoàng. Thời vua Lê Đại Hành sắc phong ông là “Nhất vị bản cảnh thành hoàng linh
phù chi thần”, thần hiệu là “Lữ Gia linh ứng Đại vương”.
Thời vua Lê Thái Tổ (1385-1433), khởi nghĩa dẹp giặc Minh, lấy
được thiên hạ, vua phong thêm mỹ tự cho ông là “Nhất vị Đại vương phổ tế, cương
nghị, anh linh”.
Điểm tựa tâm linh
Những đường nét chạm trổ tinh xảo ở đình Mậu Duyệt
Theo người dân địa phương kể lại, đình làng Mậu Duyệt xưa do
Vũ Tướng Công, người địa phương làm quan ở tỉnh Biên Hòa đã cất công thuê người
chở gỗ từ miền Trung về dựng đình từ giữa thế kỷ thứ XVI.
Năm 1779, đình được trùng tu lại, trên câu đầu còn lưu dòng
chữ Cảnh Hưng Tứ thập niên, tuế thứ Kỷ Hợi. Đến năm Quang Trung 1789, đình tiếp
tục được tu sửa và mở rộng thêm. Năm Duy Tân 1913, ngôi đình lại tiếp tục được
trùng tu.
Qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, đình Mậu Duyệt vẫn bảo tồn
phong cách thời Lê như ngày mới khởi dựng. Đình xây trên nền gạch cao thềm vỉa
bằng những phiến đá xanh, mái thấp, lòng rộng, bốn mái xoè ra thoai thoải tạo
cho mái đình bề thế vững chãi.
Đình có chiều dài hơn 20 m, rộng gần 11 m, cao 6 m, kiến
trúc chữ Đinh, gồm 5 gian tiền tế và 2 gian hậu cung. Đến nay, đình vẫn còn lưu
giữ được kiến trúc cổ cũng như những mảng, miếng chạm khắc nghệ thuật tinh xảo.
Những hàng cột gỗ lim vươn cao kết nối với những xà ngang, xà dọc, con kê, trụ
đỡ, tạo nên sự hoành tráng, chắc khỏe.
Những con chồng, đấu sen, đầu dư, đòn bẩy… được chạm khắc rồng,
nghê và hoa lá uyển chuyển, cân đối, hài hòa. Ngôi đình được xếp hạng di tích lịch
sử, văn hóa cấp quốc gia năm 1996.
Là điểm tựa tâm linh của người dân, nơi đây còn lưu lại nhiều
câu chuyện về sự linh thiêng của ngôi đình. Theo người dân kể lại, thời kháng
chiến chống Pháp, có “quan tây” đến ra lệnh đốt đình, nhưng binh lính không ai
dám làm, người này giành bó đuốc từ tay quân lính châm lên mái đình. Khi vừa
châm, người kia cảm, ngã xuống chết, từ đó không ai dám động đến ngôi đình nữa.
Những năm gần đây, người dân địa phương thường xuyên quan
tâm cung tiến sửa sang một số chi tiết nhỏ tại ngôi đình. Đứng vững qua hàng
trăm năm, đến nay ngôi đình - di tích văn hóa nghệ thuật thời Lê đã xuống cấp.
Nhiều cột gỗ lim đã mục ruỗng, gạch ở đầu hồi phía đông cũng mục, một số bức tường
bị bong tróc. Nhân dân địa phương mong cấp trên quan tâm trùng tu để giữ lại một
công trình văn hóa, lịch sử quý giá cho thế hệ sau này.
Nguồn: Báo Hải Dương