Đình Mỹ Thôn thuộc thôn Mỹ Thôn, xã Xuân Lai, huyện Gia Bình là nơi thờ phụng Cường Bạo Đại Vương, danh tướng của Vua Hùng và hai vị thiên thần là Đô Thiên Thạc Phụ, phù giúp tướng quân nam chinh dẹp giặc Ân.
Làng Mỹ Thôn còn có tên nôm là làng Móng
Mốt, một làng cổ có lịch sử hình thành và phát triển từ rất lâu đời,
xưa làng được bao bọc bởi dòng sông Móng cổ. Sông Móng bắt nguồn từ
Thuận Thành về đến Ngụ, qua bãi Hà Trịnh, chảy xuống Văn Thai, qua Kênh
Vàng rồi đổ ra sông Đuống. Chính vì ở vào vị trí “trên bến dưới thuyền”
mà từ xưa trên mảnh đất này, cư dân Việt cổ đã về đây tụ cư sinh cơ lập
nghiệp, tạo dựng lên những làng xóm trù mật, đông đúc. Mặc dù trải thăng
trầm lịch sử, vẫn còn đó một làng Mỹ Thôn cổ kính và văn hiến. Nét cổ
kính văn hiến ấy còn để lại ở tên đất, tên làng, ở các công trình văn
hóa tín ngưỡng với những phong tục tập quán mang tính thuần phong mỹ
tục.
Đình Mỹ Thôn vốn được khởi dựng
từ thời Lê (thế kỷ XVII), trên khu đất ở phía Tây của làng, để tôn thờ 3
vị thành hoàng làng là: Cường Bạo đại vương – danh tướng thời Hùng
Vương thứ 4 và hai vị thiên thần là Đô Thiên đại vương và Thạc Phụ đại
vương – đã âm phù giúp danh tướng đánh giặc cứu dân, cứu nước.
Đình Mỹ Thôn tọa lạc trên một khu đất đẹp ở phía Tây của
làng, xưa thuộc xã An Khoái, tổng Xuân Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Nay
là thôn Mỹ Thôn, xã Xuân Lai, huyện Gia Bình. Theo các cụ già làng truyền lại:
đình vốn được khởi dựng từ thời Lê (thế kỷ XVII), đình xưa có quy mô to lớn gồm:
7 gian đại đình, 3 gian Hậu cung, bộ khung bằng gỗ lim chắc khỏe, nghệ thuật
trang trí chạm khắc tinh xảo.
Vị trí thôn Mỹ Thôn ở xã Xuân Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh
Trước đình có hai dải vũ, hai bên cổng đình trang trí hình
hai con nghê lớn. Nhưng rất tiếc trong kháng chiến chống Thực dân Pháp, thực hiện
chủ trương tiêu thổ kháng chiến của nhà nước, đình đã bị đốt phá hoàn toàn, rất
may là toàn bộ đồ thờ tự của đình đã được nhân dân cất giữ chu đáo nên không bị
mất mát.
Năm 1995, với truyền thống hướng về cội nguồn, nhân dân địa
phương đã góp công, góp của xây dựng lại ngôi đình với dáng vẻ truyền thống
trên nền xưa đất cũ. Gần đây đình lại tiếp tục được trùng tu tôn tạo để có được
dáng vẻ khang trang như hiện nay.
Đình xưa nằm ở đường Má Ấn (đường có
hình giống cái ấn) trên thế đất hình con Rồng, có quy mô to lớn gồm 7
gian Đại đình, 3 gian Hậu cung, kiến trúc hình chữ Đinh, bộ khung gỗ lim
chắc khỏe, nghệ thuật trang trí chạm khắc tinh xảo. Hệ thống cột với
chu vi lớn, người ôm không xuể. Ở giữa là lòng giếng, hai bên là hệ
thống sàn gỗ. Phía trước đình có hai dải vũ, hai bên cổng đình trang trí
hình hai con nghê lớn. Nhưng rất tiếc trong thời kỳ kháng chiến chống
thực dân Pháp, thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến, đình đã bị đốt
phá hoàn toàn, rất may là toàn bộ đồ thờ tự của đình đã được cất giữ
chu đáo và mang về thờ ở phủ thờ giữa làng. Năm 1995, với truyền thống
hướng về nguồn cội, nhân dân địa phương đã góp công, góp của xây dựng
lại ngôi đình với dáng vẻ truyền thống. Năm 2011 đình tiếp tục được
trùng tu tôn tạo để có được dáng vẻ khang trang. Tổng thể công trình
kiến trúc hình chữ Đinh gồm Tiền đình và Hậu cung.
Tiền
đình 3 gian 2 chái, 4 mái đao cong mềm mại, bờ nóc đắp đôi rồng chầu
mặt hổ phù, mái lợp ngói mũi hài, cửa mở ở 3 gian giữa kiểu “thượng song hạ bản”,
hai gian bên trổ cửa hình chữ thọ tròn. Kết cấu vì nóc làm theo kiểu
“con chồng giá chiêng trụ cột chốn”, trên đó có chạm khắc hoa lá cách
điệu thể hiện các đề tài tứ linh: long, ly, quy, phượng; tứ quý: “tùng, cúc, trúc, mai” với nét chạm khắc đẹp. Phía trên hương án là bức cửa võng chạm khắc hình lưỡng long chầu nguyệt, tiếp đến là bức hoành phi “Quang nhạc chung linh”.
Hai bên hương án bày đôi lọ lục bình lớn và đôi hạc đứng trên lưng rùa,
miệng ngậm cành sen. Trên các cột được treo những đôi câu đối nội dung
ca người công lao của vị thần.
Nối
liền với gian giữa của tiền đình là hậu cung gồm 2 gian, ngăn cách giữa
hai tòa là bức cửa cấm làm bằng gỗ, mở cửa ngách ở 2 bên, tường xây kín
hai hồi và hậu. Hậu cung có diện tích (6,42m x 3,35m), bộ khung
gỗ chủ yếu được bào trơn đóng bén, quá giang gác tường. Trong Hậu cung
là nơi tối linh đặt ngai, bài vị của Đức Thánh nên được bài trí rất tôn
nghiêm, chạm khắc đẹp, sơn son thếp vàng lộng lẫy mang phong cách nghệ
thuật thời Nguyễn.
Theo khảo sát tại đình, chúng tôi thấy hiện nay đình còn giữ
được nhiều tài liệu hiện vật quý như: Kiệu bát cống, hoành phi, câu đối…đặc
biệt là bản thần tích chữ Hán được nhân dân phụng sao vào đời vua Thành Thái thứ
16 (1904).
BẢN THẦN TÍCH VỀ MỘT
VỊ CÔNG THẦN TRIỀU TĨNH VƯƠNG VÀ HAI VỊ ĐẠI VƯƠNG ÂM PHÙ
Toàn bộ nội dung thần tích được viết trên một bản giấy màu
vàng có vẽ trang trí hình rồng vân mây, triện vuông hình chữ thọ giống như giấy
sắc phong, chữ viết chân phương, rõ nét. Xin được dịch nghĩa như sau:
Ngọc phả ghi chép một vị công thần và 2 vị đại vương âm phù
triều Tĩnh Vương [thuộc chi Càn bộ trung đẳng] bản chính của Bộ Lễ.
Xưa vào thời Hùng Vương thứ 4, ở đạo Kinh Bắc [xưa gọi là quận
Bắc Giang], phủ Thuận An, huyện Lương Tài [trước gọi là Thiện Tài], trang Trình
Khê, có người họ Tạ, tên húy là Hương, vợ là Đào Thị, tên húy là Hinh.
Ông là con nhà giàu có, 3 đời làm nghề y, luôn làm việc thiện,
vợ chồng ông được ban đức rất hậu. Năm ông gần 50 tuổi, bà hơn 40, con trai mất
sớm. Bấy giờ, bà Đào Thị đêm ngủ mộng thấy Sơn Chủ Hổ Thần đến ứng cảm trong mộng,
từ đó bà có thai.
Đến ngày 15 tháng 3 năm Giáp Dần bà sinh hạ được một người
con trai, mặt mũi khôi ngô tuấn tú. Ông biết đó là sơn thần xuất thế, bèn đặt
tên là Cường Bạo. Thời gian nuôi dưỡng qua đi, đến năm 16 tuổi, ông là người có
tư chất thông minh, hiểu binh thư, giỏi võ nghệ, chỉ cần một cành tre dài, ông
có thể nhấc được cả chiếc đỉnh, sức mạnh có thể chống với muôn người, không ai
địch nổi.
Năm ông 18 tuổi, cha mẹ đều mất, ông bèn chọn nơi đất tốt
làm lễ an táng thân phụ. Ba năm sau, bấy giờ có giặc Ân sang xâm chiếm nước ta.
Tĩnh Vương bèn tuyển mộ dũng sĩ tài giỏi ở các đạo trong quận huyện dấy binh dẹp
giặc. Lúc đó Bạo công nghe có chiếu mệnh của thiên tử tuyển khắp thiên hạ, ông
liền chiêu mộ được 5000 binh lính tiến đến chỗ nhà vua để ứng tuyển.
Vua thấy ông có tài văn võ, bèn ban cho ông làm Hữu tướng
quân tiến đến đạo Kinh Bắc. Quân lính bộ hành, trống dong cở mở bay phấp phới,
vang động núi rừng. Vào một hôm, đêm đến khi ông lui quân đến đạo Kinh Bắc, phủ
Gia Định, trang An Khoái, bỗng gặp giặc Ân, ông đã đến đền của thần cầu âm phù
giết giặc, đến cuối canh 3 khi còn đang mơ màng thì bỗng thấy 2 ông lão mũ áo
chỉnh tề đến tự xưng là: Chúng tôi vốn là 2 vi thiên thần, cai trị tại miếu
nơi đây. Một người là Đô Thiên, một người là Thạc Phụ, chúng tôi nghe nói tướng
quân nam chinh dẹp giặc, cho nên linh ứng giáng lâm phù giúp.
Bèn cho một cây thiết trùy đặt tại bến sông khu đất có hình
rồng, rồi dùng thần pháp trấn trị. Trong khoảnh khắc quân giặc đã chạy tán loạn.
Sau này xin cho chúng tôi được cùng phối thờ ở đó vậy. Hai ông nói xong,
bèn cưỡi không trung bay đi, ông liền tỉnh giấc biết là thần linh báo mộng.
Sáng hôm sau, ông cho mời các bậc kì lão và nhân dân trang
An Khoái dẫn ra bến sông khu đất có hình rồng ấy. Quả nhiên thấy cây thiết trùy
thần trượng đặt ở đó, ông liền đón nhận và nói với nhân dân rằng: “Đó là linh
thần của trang các ngươi đấy”.
Ngay lập tức ông truyền lệnh cho các binh sĩ, dân chúng thiết
lập đồn doanh tại khu đất hình rồng đó để ứng phó với giặc Ân. Từ khi có ông đến,
nhân dân trang An Khoái đều được yên ổn, nên họ rất cảm tạ ân đức của ông. Nay
lập đồn nhưng sau nhân dân sẽ dựng đền để thờ phụng ông, ông đồng ý.
Một hôm, các bậc kì lão cùng với dân chúng đến dự yến tiệc,
ông bèn nói với các vị phụ lão rằng: nhân dân trang An Khoái có hậu đức với ta,
còn để lại di mệnh để ngày sau phụng sự 3 vị. Hôm sau, thấy sứ giả phụng mệnh
chiếu thư sai ông đến đạo Kinh Bắc.
Giặc Ân tới chỗ Tả tướng Phù Đổng, ông liền cùng với Bạo
công dấy binh thẳng đến chân núi Sóc Sơn, ngồi tại đó bàn kế sách tiến đánh. Bỗng
thấy giặc Ân trùng trùng, điệp điệp bốn phía hô hoán kéo đến. Quân của ông chưa
kịp chuẩn bị giáp mũ, ngựa xe nên bị bao vây.
Triều đình vốn không biết nên không có quân cứu viện, ông liền
kêu gọi binh sĩ đến nói rằng: “Ta cùng với các tướng sĩ hãy quyết chiến một trận
với giặc Ân”. Bèn lấy cây thiết trùy thần trượng chỉ huy tiến đánh, giặc Ân đại
bại, tử trận rất nhiều, chém được cả chính tướng, tì tướng và hàng nghìn tên địch,
thu hết khí giới lương thực, đó là thiên tâm linh thần âm phù trợ giúp.
Sau khi dẹp được giặc
Ân, bỗng thấy Phù Đổng Thiên Vương thượng thiên ở núi Vệ Linh, liền lấy gươm chặt
cây dung thụ rồi cưỡi không trung mà đi, không biết hóa từ lúc nào.
Còn ông Cường Bạo trở về trang Trình Khê, khi ngồi ở giữa
nhà bỗng thấy một áng mây sắc vàng như hình dải lụa mầu đỏ giáng xuống trước đồn
doanh, bỗng thấy thân ông bay ra ngoài, rồi không biết hóa lúc nào [hôm đó là
ngày 20 tháng 6]. Nhân dân thấy kinh hãi bèn tâu lên triều đình, nhà vua bèn
sai sứ ban chỉ dụ sắc phong là: “Khang tế phúc thần”, chuẩn cho trang An Khoái
đón nhận mỹ tự và lập đền thờ phụng các ông.
Đến thời Hùng Duệ Vương vẫn còn dấu tích tên tuổi, nên nhà
vua đã phong tự hiệu cho các thần:
- Nhất phong: Bảo hựu Đô Thiên đại vương.
- Nhất phong: Cường Bạo khang tế Phúc Tướng đại vương.
- Nhất phong: Uy hiển Thạc Phụ đại vương.
Từ đó về sau các ngài đều linh ứng rõ ràng. Cho nên các bậc
đế vương đều gia phong mỹ tự. Đến thời Tống Thái Bình sai tướng Hầu Nhân Bảo
đem 10 vạn binh lính thủy bộ chia làm 2 đạo tiến vào xâm lược nước ta. Vua Lê Đại
Hành đại phá 10 vạn tinh binh cự chiến, khi đến đạo Kinh Bắc, phủ Thuận An, huyện
Gia Định thì gặp đội quân Tống đi đường thủy tiến đến. Nhà vua bèn đóng quân ở
bến sông, đêm đến vào đền cầu âm phù giết giặc.
Sau khi dẹp xong giặc, nhà vua sắc phong các ngài là “Thượng
đẳng phúc thần”, bắt được tướng Hầu Nhân Bảo và giết vô số binh lính rồi phụng
mệnh khải hoàn trở về kinh sư, mở tiệc khao thưởng tướng sĩ, bọn giặc sớm được
dẹp tan cũng là nhờ sự giúp đỡ của thần. Cho nên bèn gia phong cho các thần là:
- Nhất phong: Bảo hựu Đô Thiên hiển ứng, hộ quốc tế thế,
trạch dân hoằng hưu, phúc diễn hồng ân trợ thắng linh quang đại vương.
- Nhất phong: Cường Bạo dũng lược phổ tế, cương nghị
dương vũ, phù tộ hiển đức, phong công tá trị, triệu mưu hùng kiệt đại vương.
- Nhất phong: Uy hiển Thạc Phụ linh ứng hộ quốc tế thế
trạch dân hoằng hưu, phúc diễn hồng ân trợ thắng linh quang đại vương.
Sắc chỉ ban cho trang An Khoái trùng tu miếu điện để phụng sự
việc tế tự.
Hoàng triều Cảnh Hưng phong cho 3 vị đại vương là: Diên
hy tích khánh.
Hoàng triều Cảnh Thịnh phong cho 3 vị đại vương là: Dực
chính khai bình.
Phụng sự ngày sinh, ngày hóa, các tiết, húy, tự các thần. Cấm
không được đặt tên là: Đô Thiên, Thạc Phụ, Cường Bạo. Chuẩn cho trang An
Khoái phụng sự tế tự.
- Ngày sinh của thần là 15 tháng 3. Vào chính lệ lễ thượng hạ
gồm: bò, lợn, xôi, rượu, bánh chay, giao lưu ca hát.
- Ngày hóa của thần là 20 tháng 6, lễ vật dùng như trước, cấm
ca hát.
- Lễ cầu phúc vào ngày 15 tháng 9, lễ vật tùy theo.
- Lễ cầu phúc vào ngày 1 tháng 12. Chính lễ dùng như trước.
Ngày tốt tháng giêng năm thứ nhất niên hiệu Hồng Phúc
[1572].
Hàn lâm viện Đông các Đại Học sĩ, thần Nguyễn Bính phụng soạn
chính bản.
Ngày tốt tháng 2 năm thứ 6 niên hiệu Vĩnh Hựu [1740]
Quản giám bách linh Tri điện, Hùng lĩnh thiếu khanh, thần
Nguyễn Hiền tuân theo bản cũ.
Vào năm thứ 16 thời vua Thành Thái, tức ngày tốt tháng 3 năm
Giáp Thìn [1904], nhân dân đến xã Bình Trù phụng sao lại thần tích./.
Đình làng Mỹ Thôn là công trình văn hóa,
tín ngưỡng, trung tâm sinh hoạt văn hóa của nhân dân địa phương, nơi
giáo dục truyền thống yêu quê hương đất nước, truyền thống hiếu học và
duy trì các phong tục tập quán của thôn làng. Hàng năm hội lệ đình Mỹ
Thôn được tổ chức vào ngày 11,12 tháng 11 (âm lịch). Các cụ cao tuổi
trong làng cho biết, xưa kia hội đình được tổ chức rất lớn, kéo dài từ
ngày mùng 8 đến hết ngày 18 tháng 11, trong đó lệ chính là ngày 12.
Trong những ngày hội, song song với phần lễ là phần hội với nhiều trò
chơi dân gian như: đấu vật, chọi gà, hát tuồng, chèo…đã thu hút đông đảo
nhân dân về tham gia trảy hội.
Với
giá trị trên đình làng Mỹ Thôn đã được UBND tỉnh Bắc Ninh xếp
hạng là di tích lịch sử văn hóa. Quyết định số: 62/QĐ – UBND, ngày 11
tháng 01 năm 2012.
LÊ THỊ THANH THƯ - PHẠM
VĂN THƯỞNG
Ban Quản lý di tích tỉnh
Bắc Ninh