Đình Nghĩa Vi, Thuận Thành thờ 3 vị thành hoàng: Tây phương Bạch đế, Bắc phương Hắc đế và Nam phương Xích đế có công âm phù giúp Nhị vua Hai Bà Trưng dẹp giặc Tô Định dưới thời Bắc thuộc những năm đầu Công nguyên.
Đình Nghĩa Vi, xã Hoài Thượng, huyện Thuận Thành là một ngôi
đình cổ còn bảo lưu được khá nguyên sơ nghệ thuật kiến trúc thời Lê - Nguyễn và
nhiều tài liệu, di vật cổ có giá trị như thần tích, sắc phong, bia đá cùng nhiều
đồ thờ tự tạo tác nghệ thuật khác. Trong đó giá trị nhất là bức cửa võng tại
gian giữa tòa Đại đình có niên đại khoảng nửa cuối thế kỷ XIX.
Theo dòng lạc khoản chữ Hán khắc trên cây cột ở gian thứ 3
phía bên Tây (bên trái) cho biết đình Nghĩa Vi được trùng tu sửa chữa lớn dưới
triều vua Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 21 (1760).
Đến nay, tuy trải qua một vài lần tu sửa nhưng về cơ bản
ngôi đình vẫn giữ nguyên được hình dáng khi trùng tu vào cuối thế kỷ XVIII.
Toàn bộ khung đình được làm bằng gỗ lim gồm 4 hàng cột ngang, 6 hàng cột dọc, 2
bộ vì kèo ở gian giữa kết cấu theo kiểu “thượng con chồng, hạ cốn mê”, các vì
bên làm theo lối kẻ trường giá chiêng. Trên các cấu kiện gỗ như đầu bẩy, đầu
dư, cốn mê… trang trí đề tài “tứ quý”, “tứ linh”, hoa lá, vân mây cách điệu.
Các mảng chạm khắc được thể hiện khá sinh động bằng nghệ thuật
chạm nổi, chạm kênh bong… Căn cứ vào nội dung thần tích, sắc phong đình Nghĩa
Vi thờ 3 vị thành hoàng: Tây phương Bạch đế, Bắc phương Hắc đế và Nam phương
Xích đế có công âm phù giúp Nhị vua Hai Bà Trưng dẹp giặc Tô Định dưới thời Bắc
thuộc những năm đầu Công nguyên.
Phía trước đình Nghĩa Vi.
Tại đình Nghĩa Vi hiện còn bảo lưu được nhiều tài liệu, di vật
cổ giá trị, phong phú đa dạng có niên đại từ thời Lê - Nguyễn, tiêu biểu như:
ba đạo sắc phong, trong đó 01 đạo sắc phong cho vị Bắc phương Hắc đế vào năm Tự
Đức thứ 3 (1850), 02 đạo sắc sao phong cho thánh mẫu Liễu Hạnh (Sắc phong của
điện thờ tư gia) vào các năm Tự Đức thứ 6 (1853), Bảo Đại thứ 2 (1927).
Năm tấm bia đá dựng khắc dưới thời Nguyễn gồm: “Hậu thần bi
ký” dựng vào các năm Minh Mệnh thứ 3 (1822), Tự Đức thứ 32 (1879); bia “vô đề”
dựng năm Tự Đức thứ 33 (1880); “Xã tế bi ký” dựng năm Thành Thái thứ 2 (1890);
“Tư văn bi ký” dựng năm Minh Mệnh thứ 3 (1822).
Hai cuốn thần tích chữ Hán, 01 cuốn do Hàn lâm lễ viện Đông các
đại học sĩ Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc nguyên niên (1572), Nội các bộ Lại
sao chính bản vào ngày tốt tháng 8 năm Vĩnh Hựu thứ 6 (1740), cuốn còn lại được
sao vào ngày tốt tháng 3 năm Duy Tân thứ 5 (1911), một cuốn chép lại nội dung
17 đạo sắc phong cho 3 vị thành hoàng dưới thời Tây Sơn - Nguyễn, đạo có niên đại
sớm nhất vào năm Quang Trung thứ 5 (1792), muộn nhất là năm Khải Định thứ 9
(1924)…
Ngoài ra, tại di tích còn lưu giữ được nhiều đồ thờ tự giá
trị khác như: hương án, ngai thờ, bài vị, long đình, bát bửu, đao, kiếm, biển
rước… có giá trị lịch sử và nghệ thuật cao. Trong đó giá trị nhất là bức cửa
võng tại gian giữa tòa Đại đình. Bức cửa võng hình chữ nhật, dài 3,75m, cao
1,55m toàn bộ bề mặt được sơn son thiếp vàng, chia làm 4 tầng.
Tầng dưới cùng chạm thủng hình hổ phù cùng dây lá cách điệu.
Tầng thứ hai chia làm 7 ô, 2 ô ngoài cùng nhỏ hơn 6 ô bên trong, các ô đều
trang trí chạm nổi, chạm kênh bong đề tài tứ linh “long, lân, quy, phượng”, ô
chính giữa chạm hình đôi hạc chầu ban thờ.
Tầng thứ 3 chia làm 6 ô, 4 ô phía trong chạm nổi 4 chữ Hán
“Thánh cung vạn tuế”, 2 ô ngoài mỗi bên chạm hình một con nghê chầu.
Tầng trên cùng chạm nổi đôi rồng chầu mặt trời xung quanh quấn
mây dải, đao lửa. Căn cứ vào kiểu dáng, kỹ thuật chế tác và các mô típ hoa văn
trang trí cho thấy bức cửa võng này có niên đại vào thời Nguyễn (nửa cuối thế kỷ
XIX).
Cửa võng đình Nghĩa Vi là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo chứa
đựng giá trị về mặt lịch sử, văn hóa, khoa học và mỹ thuật. Thông qua bức cửa
võng này góp phần nghiên cứu, tìm hiểu về nghệ thuật trang trí chạm khắc trên
các loại hình đồ thờ tự truyền thống của người Việt.
Nguyễn Văn An, Bảo tàng tỉnh